Bản án về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con số 78/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG DÂN, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 78/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 30 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hồng Dân mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 118/2022/TLST–HNGĐ, ngày 29 tháng 3 năm 2022 về việc tranh chấp xin ly hôn và nuôi con theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2022/QĐXXST–HNGĐ, ngày 27 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Danh Thị Xa L (Thị Xa L), sinh năm 1990 Địa chỉ: Ấp B, thị trấn Ng, huyện H, tỉnh B.

2. Bị đơn: Anh Danh Văn H, sinh năm 1986 Địa chỉ: Ấp N, xã N1, huyện H, tỉnh B.

(Chị Danh Thị Xa L vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt; anh Danh Văn H vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Danh Thị Xa L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Vào đầu năm 2009, chị L và anh H có tổ chức đám cưới trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện H, tỉnh B vào ngày 09/3/2010. Trong thời gian đầu, vợ chồng anh chị chung sống với nhau hạnh phúc nhưng được một thời gian thì phát sinh mâu thuẩn do vợ chồng anh chị không hợp nhau nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc và hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 08 năm cho đến nay. Nay chị L nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị L yêu cầu được ly hôn với anh Danh Văn H.

Về quan hệ con chung: Chị L xác định trong quá trình chung sống, giữa chị và anh H có 02 người con chung là cháu Danh Thị Thảo Q, sinh ngày 26/02/2011 và Danh Thị Thảo Y, sinh ngày 15/01/2013. Hiện tại cháu Quyên và cháu Yến đang sống chung với chị L. Chị L yêu cầu được nuôi con nhưng không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị L xác định giữa chị và anh H không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, chị L không có yêu cầu gì.

Đối với bị đơn anh Danh Văn H không cung cấp lời khai của mình cho Tòa án, Tòa án có đến nơi cư trú của anh H để lấy lời khai nhưng anh H vắng mặt. Cơ quan có thẩm quyền tại địa phương nơi cư trú của anh H xác định: anh Danh Văn H vẫn còn đăng ký hộ khẩu thường trú tại Ấp N, xã N1, huyện H, tỉnh B nhưng hiện tại anh H vắng mặt nơi cư trú, khi bỏ đi thì không có trình báo hay xin vắng mặt. Từ đó, Tòa án tiến hành niêm yết công khai tất cả các văn bản tố tụng của Tòa án đúng quy định pháp luật nhưng đến nay anh H vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, việc Tòa án gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát thì trể hơn theo quy định.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Từ khi tham gia tố tụng cho đến nay, nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận chị Danh Thị Xa L và anh Danh Văn H là vợ chồng.

Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi, hủy giấy chứng nhận kết hôn Số: 29; Quyển số: 01/2009/2010; Ngày, tháng, năm đăng ký: 09/03/2010 của UBND thị trấn Ngan Dừa.

2. Về quan hệ con chung: Tiếp tục giao cháu Danh Thị Thảo Q, sinh ngày 26/02/2011 và cháu Danh Thị Thảo Y, sinh ngày 15/01/2013 cho chị L nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị L không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con nên anh H không phải cấp dưỡng nuôi con nhưng anh H có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

3. Về quan hệ tài sản: Chị L không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Ngoài ra đương sự còn phải chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Chị Thị Xa Ly khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Danh Văn H và yêu cầu giải quyết về con chung nên căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án thụ lý giải quyết vụ án về “Tranh chấp xin ly hôn và nuôi con” là đúng quy định.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn anh Danh Văn H có nơi đăng ký thường trú tại Ấp N, xã N1, huyện H, tỉnh B nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[3] Nguyên đơn chị Danh Thị Xa L tuy rằng vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn yêu cầu được xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt đối với chị L. Bị đơn anh Danh Văn H vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với anh Danh Văn H.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh H có tổ chức đám cưới với nhau trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Ngan Dừa, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 09/3/2010. Trong quá trình chung sống giữa chị và anh H có phát sinh nhiều mâu thuẩn do vợ chồng anh chị không hợp nhau nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc và hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 08 năm cho đến nay. Nay chị L nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị L yêu cầu được ly hôn với anh H. Tuy nhiên theo tài liệu chị L cung cấp là giấy chứng nhận kết hôn lập ngày 09/3/2010 (bản chính) nhưng không có chữ ký tên của vợ, chồng trên giấy chứng nhận kết hôn. Đối chiếu với quy định tại khoản 3 Điều 18 Nghị định số 158/2005/NĐ – CP, ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch do đó giấy chứng nhận đăng ký kết hôn nêu trên không có giá trị nên coi như chị L và anh H chung sống như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn. Do đó căn cứ vào Điều 14 và khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử không công nhận chị Danh Thị Xa Ly và anh Danh Văn H là vợ chồng. Đồng thời, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi, hủy giấy chứng nhận kết hôn Số: 29; Quyển số: 01/2009/2010; Ngày, tháng, năm đăng ký: 09/03/2010 của UBND thị trấn Ngan Dừa.

[5] Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống chị L xác định giữa chị và anh H có 02 người con chung là cháu Danh Thị Thảo Q, sinh ngày 26/02/2011 và cháu Danh Thị Thảo Y, sinh ngày 15/01/2013. Hiện tại cháu Quyên và cháu Yến đang sống chung với chị L. Chị L yêu cầu được nuôi con nhưng không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, cháu Quyên và cháu Yến đang sống cùng chị L và các cháu đã có cuộc sống, môi trường ăn, ở, học ổn định. Đồng thời, cháu Quyên và cháu Yến có nguyện vọng theo sống cùng mẹ là chị L. Do đó, Hội đồng xét xử tiếp tục giao cháu Danh Thị Thảo Q, sinh ngày 26/02/2011 và cháu Danh Thị Thảo Y, sinh ngày 15/01/2013 cho chị L nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con nhưng anh H có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

[6] Về quan hệ tài sản: Chị L xác định giữa chị và anh H không có tài sản chung, không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Buộc chị L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng.

Về ý kiến phát biểu việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên: Hội đồng xét xử xét thấy việc đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ và được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 9, Điều 14, Điều 15, Điều 53, Điều 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị định số 158/2005/NĐ – CP, ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch.

Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận chị Danh Thị Xa L và anh Danh Văn H là vợ chồng.

Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi, hủy giấy chứng nhận kết hôn Số:

29; Quyển số: 01/2009/2010; Ngày, tháng, năm đăng ký: 09/03/2010 của UBND thị trấn Ngan Dừa.

2/ Về con chung: Tiếp tục giao cháu Danh Thị Thảo Q, sinh ngày 26/02/2011 và cháu Danh Thị Thảo Y, sinh ngày 15/01/2013 cho chị L nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con nhưng anh H có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

3/ Về tài sản chung: Chị Danh Thị Xa L không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4/ Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Danh Thị Xa L phải nộp số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng chị L đã dự nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai thu số: 0006231 ngày 29/3/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nay chuyển thu toàn bộ số tiền trên thành án phí.

Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ. Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp và cấp trên được quyền kháng nghị bản án này theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

123
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con số 78/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:78/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Dân - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về