Bản án về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con số 22/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẠC LIÊU - TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 22/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/05/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 19 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu tiến hành phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 259/2021/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 11 năm 2021 về tranh chấp “Xin ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2022/QĐXX-ST ngày 01 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Trần Thanh T, sinh năm 1990 (Vắng mặt) Địa chỉ: Khóm N, Phường M, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1989 (Vắng mặt) Địa chỉ: Khóm N, Phường M, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Trần Thanh T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị Kim L tự nguyện chung sống vợ chồng từ năm 2016, có tổ chức lễ cưới theo phong tục, có đăng ký kết hôn với nhau và được Ủy ban nhân dân Phường 8, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 17/4/2017. Quá trình chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng thường hay xảy ra cãi vã làm ảnh hưởng đến hàng xóm xung quanh, mâu thuẫn hiện nay đã trầm trọng nên cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Hơn nữa vợ chồng anh đã ly thân từ năm 2019 đến nay. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn và xin ly hôn với chị L.

Về con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung là cháu Trần Thị Thảo M, sinh ngày 15/5/2017 và cháu Trần E, sinh ngày 30/01/2019. Khi ly hôn anh yêu cầu được nuôi cháu Trần Thị Thảo M (Hiện nay cháu M đang sống cùng anh T) và anh đồng ý giao cháu Trần E cho chị L trực tiếp, chăm sóc, giáo dục (Hiện nay cháu E đang sống cùng chị L).

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên anh T không yêu cầu giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án chị Nguyễn Thị Kim L được Tòa án triệu tập, thông báo hợp lệ nhiều lần, nhưng chị L vắng mặt không lý do nên không có lời trình bày.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu phát biểu quan điểm:

- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý cho đến phiên tòa xét xử sơ thẩm hôm nay, Tòa án đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Giải quyết đúng thẩm quyền, cấp, tống đạt các văn bản tố tụng đúng quy định. Việc chấp hành pháp luật của đương sự đã thực hiện đầy đủ. Vì vậy, về mặt tố tụng Viện kiểm sát không có ý kiến hay kiến nghị gì.

- Về nội dung vụ án: Về hôn nhân, anh T và chị L chung sống có đăng ký kết hôn nên đây là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng đã mâu thuẫn, không thể hàn gắn được và vợ chồng đã ly thân từ năm 2019 đến nay nên việc anh T yêu cầu ly hôn là có căn cứ chấp nhận. Về con chung: Anh T yêu cầu được nuôi cháu M. Do từ khi vợ chồng anh T và chị L sống ly thân thì cháu M sống cùng anh T cho đến nay. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục giao cháu M cho anh T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Đối với cháu Trần E hiện nay còn nhỏ nên rất cần sự chăm sóc của người mẹ và anh T cũng thống nhất giao cháu E cho chị L chăm sóc, nuôi dưỡng nên đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu E cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Về cấp dưỡng: Anh T và chị L không yêu cầu cấp dưỡng nên không đặt ra xem xét giải quyết. Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không đặt ra xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa và sau khi thảo luận Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn anh Trần Thanh T khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn là chị Nguyễn Thị Kim L nên đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn là chị L, hiện đang cư trú tại thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu nên vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn anh Trần Thanh T có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn là chị Nguyễn Thị Kim L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng vắng mặt không rõ lý do. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn anh T và bị đơn là chị L theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự là phù hợp.

[3] Xét quan hệ hôn nhân: Anh Trần Thanh T và chị Nguyễn Thị Kim L đăng ký kết hôn với nhau ngày 17/4/2017 tại Ủy ban nhân dân Phường 8, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu trên cơ sở được tự do tìm hiểu và hoàn toàn tự nguyện. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Quá trình chung sống vợ chồng anh T và chị L thường xuyên phát sinh nhiều mâu thuẫn và mâu thuẫn hiện nay đã trầm trọng. Hơn nữa, anh T và chị L đã sống ly thân từ năm 2019 đến nay. Quá trình giải quyết việc anh T xin ly hôn, chị L biết việc anh T xin ly hôn nhưng chị L không quan tâm và bỏ mặc để anh T tự giải quyết. Thể hiện chị T cũng không còn quan tâm gì đến hạnh phúc gia đình, tình trạng hôn nhân giữa anh T và chị L là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận yêu cầu của anh T và cho anh T được ly hôn chị L là phù hợp.

[4] Về con chung: Vợ chồng anh có 02 con chung là cháu Trần Thị Thảo M, sinh ngày 15/5/2017 và cháu Trần E, sinh ngày 30/01/2019. Khi ly hôn anh yêu cầu được nuôi cháu Trần Thị Thảo M (Hiện nay cháu M đang sống cùng anh T) và anh đồng ý giao cháu Trần E cho chị L trực tiếp, chăm sóc, giáo dục (Hiện nay cháu E đang sống cùng chị L). Hội đồng xét xử xét thấy hiện nay cháu Trần E còn nhỏ nên rất cần sự chăm sóc của người mẹ và anh T cũng đồng ý giáo cháu E cho chị L chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nên có căn cứ giao cháu Trần E cho chị L tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được quyền ngăn cản. Đối với cháu Trần Thị Thảo M từ khi vợ chồng anh sống ly thân thì cháu M sống cùng anh T và cháu M phát triển bình thường nên có cơ sở giao cháu M cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị L có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được ngăn cản. Về cấp dưỡng: Trong quá trình giải quyết vụ án anh T và chị L không yêu cầu cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết tại phiên tòa hôm nay.

[6] Về án phí: Anh T phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 và điểm a, b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Áp dụng khoản 1 Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1/. Về hôn nhân: Xử cho anh Trần Thanh T được ly hôn với chị Nguyễn Thị Kim L.

2/. Về con chung: Giao cháu Trần Thị Thảo M, sinh ngày 15/5/2017 cho anh Trần Thanh T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Giao cháu Trần E, sinh ngày 30/01/2019 cho chị Nguyễn Thị Kim L tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Trần Thanh T và chị Nguyễn Thị Kim L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở. Về cấp dưỡng: Anh T và chị L không yêu cầu cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

3/. Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4/. Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm anh Trần Thanh T phải nộp 300.000 đồng. Anh T đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0007075 ngày 15 tháng 11 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu được chuyển thu án phí.

5/. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Án xử công khai, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

108
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con số 22/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:22/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về