Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 80/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 80/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 13 tháng 6 năm 2022, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 13/2022/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 02 năm 2022 về “Tranh chấp về ly hôn và nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 25 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 26/2022/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Tuyết N, sinh năm 1999; địa chỉ: thôn A, xã B, huyện H, tỉnh Q. Vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Trần Văn K, sinh năm 1991; địa chỉ: thôn Đ (nay là L), xã Q, huyện S, tỉnh Q. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 08/02/2022, bản tự khai, đơn xin xét xử vắng mặt và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - chị Nguyễn Thị Tuyết N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Trần Văn K tự nguyện kết hôn, được Ủy ban nhân dân xã B, huyện H, tỉnh Q cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 22 ngày 01/9/2020. Sau khi kết hôn, vợ chồng nảy sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, anh K có những lời lẽ xúc phạm chị và gia đình chị. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị xin được ly hôn với anh K.

Về con chung: Có 01 con chung tên Trần Nguyễn Khánh N, sinh ngày 11/7/2020. Khi ly hôn, chị xin được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu N và không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Trong quá trình giải quyết vụ án, từ khi thụ lý cho đến khi xét xử, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh K nhưng anh đều vắng mặt không có lý do và không gửi văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị N.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn phát biểu ý kiến:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn và nuôi con của chị Nguyễn Thị Tuyết N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

[1.1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: chị Nguyễn Thị Tuyết N có quan hệ hôn nhân hợp pháp với anh Trần Văn K; địa chỉ: thôn Đ (nay là L), xã Q, huyện S, tỉnh Q. Nay, chị N xin ly hôn với anh K và yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung nên quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp về ly hôn và nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam theo khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2]. Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa, nguyên đơn - chị Nguyễn Thị Tuyết N có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn - anh Trần Văn K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự tại phiên tòa.

[2]. Về nội dung vụ án:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh K tự nguyện kết hôn, được Ủy ban nhân dân xã B, huyện H, tỉnh Q cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 22 ngày 01/9/2020 nên đây là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật thừa nhận. Sau khi kết hôn giữa chị N, anh K xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân theo chị N là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh K đã có những lời lẽ xúc phạm chị và gia đình chị. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị N đều cương quyết xin ly hôn, còn anh K không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, không tham gia các phiên tòa. Điều đó cho thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng chị N, anh K đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N là phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[2.2]. Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, chị N và anh K có 01 con chung tên là Trần Nguyễn Khánh N, sinh ngày 11/7/2020. Khi ly hôn, chị N có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy cháu N hiện đang ở với chị N và còn nhỏ nên cần sự chăm sóc của người mẹ để đảm bảo cho sự phát triển toàn diện về tinh thần và thể chất của cháu. Hơn nữa, anh K vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án và các phiên tòa, thể hiện sự không quan tâm đến gia đình, con cái. Vì vậy, cần giao cháu N cho chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi) là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình. Về cấp dưỡng nuôi con, chị N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Anh K có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở phù hợp với quy định tại Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình. Các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3]. Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Tuyết N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Tuyết N đối với anh Trần Văn K về việc "Tranh chấp về ly hôn và nuôi con".

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Tuyết N và anh Trần Văn K.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Nguyễn Khánh N, sinh ngày 11/7/2020 cho chị Nguyễn Thị Tuyết N trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên (đủ 18 tuổi). Chị N không yêu cầu anh Trần Văn K cấp dưỡng nuôi con. Anh K có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị Nguyễn Thị Tuyết N phải chịu, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm mà chị N đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004590 ngày 08/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

4. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo yêu cầu xét xử theo trình tự phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 80/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:80/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Sơn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về