Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 14/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN C, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 26 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận C, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 04/2022/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2022 về tranh chấp ly hôn và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Mỹ N, sinh năm: 1993.

Địa chỉ: khu vực T, phường P, quận C, thành phố Cần Thơ. (Vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông Trương Thanh Toàn E, sinh năm: 1990.

Địa chỉ: khu vực L, phường P, quận C, thành phố Cần Thơ. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 20/10/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Nguyễn Mỹ N trình bày:

Sau một thời gian tìm hiểu, giữa bà và ông Trương Thanh Toàn E tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường P, quận C, thành phố Cần Thơ cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 19/2011 ngày 16/4/2011. Thời gian đầu sau khi kết hôn, vợ chồng sống với nhau hạnh phúc. Tuy nhiên, đến đầu năm 2020, ông E không quan tâm chăm sóc vợ con, thường xuyên hành hung bà. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà N đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Trương Thanh Toàn E.

Về con chung: Trong thời gian chung sống, giữa bà N và ông E có với nhau 01 người con chung tên là Trương Thị M, sinh ngày 24/11/2011 hiện đang do bà N nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, bà N xin được tiếp tục nuôi con đến tuối trưởng thành, không yêu cầu ông E cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đồng thời, bà Nguyễn Mỹ N có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt bà.

- Bị đơn Trương Thanh Toàn E mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do nên không tiến hành hòa giải giữa các bên đương sự được. Do đó, vụ án được đưa ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn và bị đơn đều vắng mặt.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về tố tụng và nội dung giải quyết vụ án. Về tố tụng thì Kiểm sát viên cho rằng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng, kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định của pháp luật. Còn về nội dung giải quyết vụ án, Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho bà Nguyễn Mỹ N được ly hôn với ông Trương Thanh Toàn E. Về con chung, Trương Thị M, sinh ngày 24/11/2011 đề nghị giao cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng. Ông E không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung thừa nhận không có nên không đặt ra xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Giữa bà Nguyễn Mỹ N và ông Trương Thanh Toàn E là công dân Việt Nam có chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân phường P, quận C cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 19/2011 ngày 16/4/2011 nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nay bà N yêu cầu Tòa án cho bà được ly hôn với ông Trương Thanh Toàn E, hiện sinh sống tại số 422, khu vực L, phường P, quận C, thành phố Cần Thơ nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận C được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo thụ lý vụ án và triệu tập bị đơn Trương Thanh Toàn E hợp lệ nhiều lần. Tuy nhiên, bị đơn vẫn vắng mặt không lý do. Nguyên đơn Nguyễn Mỹ N thì có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định.

[3] Về hôn nhân: Hội đồng xét xử xét thấy, hôn nhân phải được xây dựng dựa trên nguyên tắc tự nguyện xuất phát từ tình cảm giữa hai vợ chồng và phải có trách nhiệm chăm sóc, thương yêu, tôn trọng, giúp đỡ nhau để xây dựng gia đình hạnh phúc. Tuy nhiên, giữa bà N và ông E không xây dựng hạnh phúc gia đình dựa trên nguyên tắc đó mà lại nhiều lần xảy ra mâu thuẫn, không quan tâm chăm sóc nhau. Hiện tại bà N và ông E cũng đã sống ly thân với nhau. Ông E cũng được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để đến Tòa án làm việc nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Điều đó cho thấy, ông E không còn thiết tha với cuộc hôn nhân này nữa. Cả hai người không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau nên đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử thấy rằng yêu cầu xin ly hôn của bà N là có cơ sở chấp nhận.

[4] Về con chung: Giữa bà N và ông E có với nhau một người con chung tên là Trương Thị M, sinh ngày 24/11/2011 hiện đang do bà N nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, bà N xin được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu ông E cấp dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy, hiện tại cháu Ánh đang sống ổn định với bà N, được bà N nuôi dưỡng, chăm sóc tốt. Do đó, việc giao cháu Ánh cho bà N tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Do bà N không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra xem xét giải quyết [5] Về tài sản chung và nợ chung: Thừa nhận không có nên không đặt ra xem xét giải quyết. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp, sẽ giải quyết thành vụ kiện khác.

[6] Về án phí Hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn Nguyễn Mỹ N phải chịu án phí Hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 150, Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Khoản 1 Điều 56, Điều 81 và Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Mỹ N được ly hôn với ông Trương Thanh Toàn E.

2. Về con chung: Giao cháu Trương Thị M, sinh ngày 24/11/2011 cho bà Nguyễn Mỹ N trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Ông Trương Thanh Toàn E không phải cấp dưỡng nuôi con.

Dành quyền thăm nom con chung cho ông E, không ai được cản trở ông E thực hiện quyền này.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Thừa nhận không có nên không đặt ra xem xét giải quyết. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp, sẽ giải quyết thành vụ kiện khác.

4. Về án phí: Bà Nguyễn Mỹ N phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân sơ thẩm. Chuyển 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí bà N đã nộp theo biên lai thu số 0008148 ngày 22/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận C thành tiền án phí của bà N. Như vậy, bà N đã nộp đủ án phí Hôn nhân sơ thẩm.

5. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

589
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cờ Đỏ - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về