Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 02/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BUÔN ĐÔN, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 02/2022/HNGĐ-ST NGÀY 02/03/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 02 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Buôn Đôn mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 151/2021/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 11 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2022/QĐXX-ST ngày 21 tháng 01 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2022/QĐST-DS ngày 11/02/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Thu L, sinh năm: 1991 Trú tại: Buôn E, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).

- Bị đơn: Anh Bùi Minh Th, sinh năm: 1991 Trú tại: Thôn 9, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt lần thứ 2).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 29/11/2021, bản tự khai và tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn chị Hoàng Thị Thu L trình bày:

Chị và anh Bùi Minh Th đăng ký kết hôn ngày 10/10/2018 tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk trên cơ sở tự nguyện. Quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, đến khoảng đầu tháng 3 năm 2019, thì xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau. Nguyên nhân là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm, anh Th thường hay đi nhậu, không quan tâm đến vợ con và có người tình bên ngoài nên dẫn đến thường xuyên cãi vã bất hòa, hai vợ chồng đã sống ly thân.

Nay nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng không thể tiếp tục chung sống với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không còn tình cảm nên đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh Bùi Minh Th.

Về con chung: Chị và anh Thanh có 01 con chung là cháu Bùi Hoàng Gia Linh - Sinh ngày 01/3/2019. Sau khi ly hôn chị Lan có nguyện vọng được nuôi cháu Linh đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi).

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lan không yêu cầu.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn anh Bùi Minh T : Đã được Tòa án niêm yết hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về việc kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, giấy triệu tập đương sự, nhưng anh Thanh đều vắng mặt không lý do, không có mặt tại buổi hòa giải nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Vì vậy, Tòa án tiến hành lập biên bản làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án.

Quá trình thu thập chứng cứ để làm căn cứ giải quyết vụ kiện, Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn đã tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân của chị Hoàng Thị Thu Lan và anh Bùi Minh T  tại Ban tự quản và Hội phụ nữ thôn 09, xã Ea Bar, huyện Buôn Đôn. Qua xác minh tại địa phương thì được biết chị Lan và anh Thanh cũng có mâu thuẫn nhưng không báo với ban thôn, được biết hiện nay chị Lan đã bỏ về sống với bố mẹ đẻ ở huyện Cư Kuin và hai người đã sống ly thân. Tòa án huyện Buôn Đôn đã tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải, phân tích các quy định của pháp luật nhưng chị Lan vẫn nhất quyết xin được ly hôn với anh Thanh, còn anh Thanh thì không đến Tòa án để làm việc, nên không tiến hành hoà giải được. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn căn cứ Điều 203 của Bộ luật tố tụng Dân sự, đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Hoàng Thị Thu Lan giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, chị cho rằng mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho chị được ly hôn với anh Bùi Minh T , về con chung, chị xin được nuôi cháu Bùi Hoàng Gia Linh - Sinh ngày 01/3/2019 đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung, nợ chung không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Buôn Đôn phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, của các đương sự và ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau: Sau khi thụ lý vụ án hôn nhân gia đình. Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đúng và đầy đủ các thủ tục tố tụng, giao thông báo thụ lý vụ án, giao thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thu thập chứng cứ làm căn cứ giải quyết vụ án. Ra quyết định xét xử, tống đạt hợp lệ quyết định xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định về trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Đối với các đương sự, nguyên đơn chấp hành đúng các quy định pháp luật, bị đơn không chấp hành pháp luật.

Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luaät Hoân nhaân & Gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Hoàng Thị Thu Lan. Xử cho chị Hoàng Thị Thu Lan được ly hôn với anh Bùi Minh T .

Về con chung: Giao cho cháu Bùi Hoàng Gia Linh - Sinh ngày 01/3/2019 cho chị Hoàng Thị Thu Lan nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Về tài sản chung các đương sự không yêu cầu nên không xem xét; chị Hoàng Thị Thu Lan phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả hỏi công khai trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ kiện, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Chị Hoàng Thị Thu Lan yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Bùi Minh T  thì đây là “Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung” nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Nhận thấy chị Hoàng Thị Thu Lan và anh Bùi Minh T  có đăng ký kết hôn 10/10/2018 tại Ủy ban nhân dân xã Ea Bhốk, huyện Cư Kuin, tỉnh Đăk Lăk trên cơ sở tự nguyện. Quá trình chung sống thì xảy ra nhiều mâu thuẫn, cãi nhau, nguyên nhân là do hai vợ chồng không có tiếng nói chung, bất đồng quan điểm, không có sự quan tâm chia sẻ. Qua xác minh tại nơi cư trú của anh Bùi Minh T  sinh sống thì được biết chị Lan và anh Thanh có mâu thuẫn cãi nhau nhưng không báo với ban thôn. Quá trình giải quyết tại Tòa án chị Lan nhất quyết đòi ly hôn với anh Thanh. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa hai vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu cứ kéo dài hôn nhân của các bên cũng không thể mang lại hạnh phúc cho nhau. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân & Gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị Thu Lan, xử cho chị Lan được ly hôn với anh Bùi Minh T  là phù hợp.

[3] Về con chung: Xét thấy cháu Bùi Hoàng Gia Linh - Sinh ngày 01/3/2019 đang còn nhỏ, dưới 36 thánh tuổi, hiện đang sống với mẹ và chị Lan có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu Linh. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân & Gia đình, giao cho cháu Bùi Hoàng Gia Linh cho chị Hoàng Thị Thu Lan trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi) là phù hợp nên cần chấp nhận.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Xét thấy chị Lan thỏa thuận không yêu cầu nên không xem xét.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[6] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 4 Điều 147; Điều 203;điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng Dân sự;

Các điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân & Gia đìnhĐiểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Hoàng Thị Thu Lan.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị Thu Lan được ly hôn với anh Bùi Minh T .

- Về nuôi con chung: Giao cháu Bùi Hoàng Gia Linh - Sinh ngày 01/3/2019 cho chị Hoàng Thị Thu Lan trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (Đủ 18 tuổi).

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lan không yêu cầu nên không xem xét.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu giải quyết.

- Về án phí: Chị Hoàng Thị Thu Lan phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Buôn Đôn theo biên lai thu số 0002506 ngày 29/11/2021.

- Quyền kháng cáo: Chị Hoàng Thị Thu Lan có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn luật định 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn và anh Bùi Minh T  vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn luật định 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 02/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:02/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Buôn Đôn - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về