Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn số 372/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 372/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/12/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 31 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công Khi vụ án thụ lý số 207/2021/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình “ Ly hôn và nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 186/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Châu Thị Yến Kh, sinh năm 1997.

Nơi cư trú: ấp Bình H, xã Bình L, huyện Châu Ph, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Anh Lê Văn S, sinh năm 1989.

Nơi cư trú: ấp Bình T 2, xã Bình Thạnh Đ, huyện Phú T, tỉnh An Giang

(Chị Kh xin vắng mặt, anh S vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện và biên bản ghi lời Khi, nguyên đơn chị Châu Thị Yến Kh trình bày: Chị và anh S được người thân mai mối và tổ chức lễ cưới vào năm 2013, không nhớ cụ thể ngày, tháng. Sau khi cưới chung sống đến năm 2019 mới đăng ký kết hôn tại UBND xã Bình Thạnh Đông số 75 ngày 12/8/2019. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, đến năm 2019 sau khi sinh đứa con thứ 2, thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh S thường xuyên uống rượu, không chăm sóc con cái, chăm lo cuộc sống kinh tế gia đình, thiếu trách nhiệm với gia đình, chị có khuyên nhủ nhưng anh S không sửa đổi đến tháng 12/2020 chính thức ly thân, anh S bỏ đi làm ăn ở đâu không biết, chị có liên lạc qua điện thoại anh S cũng đồng ý ly hôn, nay tình cảm không còn, không có tương lai, nên chị yêu cầu ly hôn anh S.

- Về con chung: Trong thời gian chung sống có 02 con chung tên Lê Vĩnh L, sinh ngày 09/8/2014, đang sống với anh S và Lê Quốc A, sinh ngày 06/7/2019 do chị đang nuôi dưỡng từ khi ly thân đến nay. Khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu A, không yêu cầu cấp dưỡng, đồng ý để anh S nuôi cháu L chị cũng không phải cấp dưỡng cho con.

- Về tài sản chung và nợ của vợ chồng: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Anh Lê Văn S vắng mặt từ khi Tòa án thụ lý vụ án, nên không có ý kiến trình bày.

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân:

- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, chị Kh có ý kiến trình bày rõ ràng và xin vắng mặt khi xét xử là phù hợp với Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, riêng anh S vắng mặt suốt quá trình tố tụng là chấp hành pháp luật chưa nghiêm.

- Về nội dung: Hôn nhân của anh, chị được xác lập do mai mối và được cha mẹ hai bên tổ chức lể cưới vào năm 2013, chung sống đến năm 2019 mới đăng ký kết hôn tại UBND xã Bình Thạnh Đông, chung sống đến khi sinh con thứ 2 vào tháng 7/2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh S thường xuyên uống rượu, không chăm lo con cái, cuộc sống gia đình, chị có khuyên nhủ nhưng anh S không thay đổi sửa chữa, từ đó vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau và đã ly thân từ tháng 12/2020 đến nay, từ khi ly thân đến nay anh chị không tạo điểu kiện để hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị Kh yêu cầu ly hôn với anh S là có căn cứ phù hợp với lời trình bày của anh Châu Hồng V (em ruột chị Kh), đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Về con chung: Trong thời gian chung sống anh chị có 02 con chung tên Lê Vĩnh L, sinh ngày 09/8/2014, đang sống với anh S và Lê Quốc A, sinh ngày 06/7/2019 do chị đang nuôi dưỡng từ khi ly thân đến nay. Khi ly hôn, chị Kh yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu A, không yêu cầu cấp dưỡng, đồng ý để anh S nuôi cháu Lộc chị cũng không phải cấp dưỡng cho con, nghĩ cũng phù hợp, đề nghị HĐXX chấp nhận.

Về tài sản không có tranh chấp nên không giải quyết.

Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Kh yêu cầu được vắng mặt khi xét xử, chị có ý kiến trình bày rõ ràng yêu cầu của mình; Bị đơn anh Lê Văn S đã được tống đạt các văn bản tố tụng cũng như triệu tập lần thứ 2 để nghe xét xử, nhưng anh vẫn vắng mặt, việc vắng mặt của anh, chị không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án, nên HĐXX xét xử vắng mặt anh, chị theo Điều 227 và Điều 228 Bộ Luật tố tụng dân sự để đảm bảo quyền lợi cho các bên.

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết: hiện nay anh S đăng ký hộ khẩu thường trú tại: ấp Bình Tây 2, xã Bình Thạnh Đông, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang nên chị Kh khởi kiện xin ly hôn là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ Luật tố tụng dân sự.

[1.2] Về quan hệ tranh chấp: Chị Kh xin ly hôn và giải quyết việc nuôi con nên quan hệ tranh chấp là “Ly hôn và nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khỏan 1 Điều 28 Bộ Luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Xét chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện, hôn nhân của anh, chị được xác lập do mai mối và được cha mẹ hai bên đồng ý tổ chức lễ cưới vào năm 2013, chung sống đến năm 2019 mới đăng ký kết hôn tại UBND xã Bình Thạnh Đông, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang nên hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ khi có mâu thuẩn xảy ra, thời gian đầu chung sống hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh S thường xuyên uống rượu, không chăm sóc con cái, lo kinh tế cuộc sống gia đình, chị Kh có khuyên nhủ nhưng anh S không sửa chữa, từ đó vợ chồng thường xuyên cự cãi và đã ly thân từ tháng 12/2020 đến nay, từ khi ly thân đến nay anh chị không tạo điểu kiện để hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị Kh yêu cầu ly hôn với anh S, là phù hợp với lời trình bày của anh Châu Hồng Vĩnh (em ruột chị Kh), để anh chị có cuộc sống riêng sau này, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Kh theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Về con chung: Thời gian chung sống anh chị có 02 con chung tên Lê Vĩnh L, sinh ngày 09/8/2014, đang sống với anh S và Lê Quốc A, sinh ngày 06/7/2019 do chị đang nuôi dưỡng từ khi ly thân đến nay. Khi ly hôn, chị Kh yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu A, không yêu cầu cấp dưỡng, đồng ý để anh S nuôi cháu L chị cũng không phải cấp dưỡng cho con. Xét thấy việc trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng và cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn, vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đối với con chưa thành niên, theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, hiện con chung mỗi người chăm sóc, nuôi dưỡng 01 cháu cũng ổn định, nên HĐXX giao cháu Lê Quốc A cho chị Kh tiếp tục nuôi dưỡng, anh S không phải cấp dưỡng cho con. Giao cháu Lê Vĩnh L cho anh S tiếp tục nuôi dưỡng, chị Kh không phải cấp dưỡng cho con Về quan hệ tài sản chung; nợ chung phải thu, phải trả: Các bên không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Về nợ chung: Ghi nhận chị Kh Khi không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì chị Kh và anh S phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án khác.

[3] Về án phí: Chị Kh là người xin ly hôn, nên phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 56 và Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ Luật tố tụng Dân sự 2015;

- Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án dân sự;

- Căn cứ Điều 26, khoản 5 Điều 27, Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, - Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn và việc nuôi con của chị Châu Thị Yến Kh đối với anh Lê Văn S.

- Về quan hệ hôn nhân: chị Châu Thị Yến Kh được ly hôn với anh Lê Văn S.

- Về quan hệ con chung: Tiếp tục giao cháu Lê Quốc A, sinh ngày 06/7/2019 cho chị Châu Thị Yến Kh nuôi dưỡng đến thành niên hoặc tự lập được, Tiếp tục giao cháu Lê Vĩnh L, sinh ngày 09/8/2014 cho anh Lê Văn S nuôi dưỡng đến thành niên hoặc tự lập được. Chị Kh và anh S không phải cấp dưỡng cho con.

- Về quan hệ tài sản chung; nợ chung phải thu, phải trả: không có.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Châu Thị Yến Kh phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn, được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0002511 ngày 04/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân, anh Lê Văn S không phải chịu án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản sao bản án.

Trường hợp bản án, được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sư, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

539
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn số 372/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:372/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về