Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn số 355/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 355/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/12/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 23 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 251/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2021, về tranh chấp hôn nhân và gia đình “Xin ly hôn và nuôi con khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 184/2021/QĐXXST- HN ngày 10 tháng 12 năm 2021 giữa:

1. Nguyên đơn: Anh Hồ Văn Ph (tự Ph), sinh năm 1979.

Địa chỉ: ấp Thành Nhì, xã Bình X, TX Gò C, tỉnh Tiền G (nay đổi lại ấp Bình Nh, xã Bình X, thị xã Gò Công Đ, tỉnh Tiền Giang).

Tạm trú: tổ 02, ấp Phú H, TT Chợ V, huyện Phú T, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Đ (tự N), sinh năm 1977.

Đại chỉ: tổ 02, ấp Phú H, thị trấn Chợ V, huyện Phú T, An Giang. (Anh Ph có mặt, chị Đ xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Căn cứ theo đơn khởi kiện, biên bản không hòa giải được và ý kiến trình bày các bên đương sự thể hiện như sau: Anh, chị tự tìm hiểu quen biết nhau, chung sống như vợ chồng năm 2002, không tổ chức lễ cưới cũng không đăng ký kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2010 vợ chồng lên TP. HCM thuê nhà trọ ở đi làm thuê làm thợ hồ. Vợ chồng sống đến năm 2014 thì chị Đ bỏ về quê, còn anh vẫn ở lại TP HCM đi làm, hàng tháng vẫn gởi tiền về cho Đ chi xài đến khoảng 2 năm nay anh phát hiện chị Đ có người đàn ông khác, chung sống như vợ chồng với người đó, anh và mẹ vợ (mẹ của chị Đ bà Nghiệm) bắt gặp cũng có nhiều lần khuyên can chị Đ từ bỏ để vợ chồng lo làm ăn nuôi con nhưng chị Đ vẫn không từ bỏ vẫn ngang nhiên chung sống với người Đn ông khác trong nhà. Đến nay tình cảm vợ chồng không còn, không nếu kéo, hàn gắn được với nhau nay yêu cầu ly hôn với Nguyễn Thị Đ - Về con chung: Có 03 con chung tên Hồ Đan Tr, sinh ngày 29/01/2003, cháu Hồ Thị Minh Th, sinh ngáy 31/7/2005 và Hồ Thị Minh Th, sinh ngày 19/01/2008 từ trước đến giờ cả 03 con chung theo anh sinh sống và làm thuê ở TP. HCM. Nay ly hôn anh yêu cầu được tiếp tục nuôi 03 con chung, anh không yêu cầu chị Đ cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Vợ chồng có 01 căn nhà gắn liền nền đất. Khi gởi đơn kiện có trình bày, nay không yêu cầu giải quyết để vợ chồng thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án, ngoài ra không có tranh chấp tài sản nào khác.

- Về nợ phải thu phải trả: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn chị Nguyễn Thị Đ trình bày: thời gian chung sống như anh Ph trình bày, do vợ chồng cự cải anh Ph bò ra ngoài sống, chị về quê ở trong căn nhà của vợ chồng, nay anh Ph yêu cầu ly hôn chị cũng đồng ý.

- Con chung có 3 đứa như anh Ph trình bày, hiện tại các cháu sống với anh Ph và đi làm thuê ở TP.HCM, khi ly hôn anh Ph yêu cầu nuôi cả 3 đứa chị cũng đồng ý, chị không phải cấp dưỡng cho con.

- Về tài sản chung: Có căn nhà gằn liền nền đất, vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Về nợ phải thu phải trả: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân:

- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định pháp luật, Tuy nhiên chị Đ vắng mặt trong quá trình công khai chứng cứ và hòa giải là chấp hành pháp luật chưa nghiêm.

- Về nội dung: Hôn nhân của anh, chị được xác lập tự tìm hiểu và tự nguyện chung sống vào năm 2002, không tổ chức lễ cưới, không đăng ký kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc đến khoảng năm 2010 lên TP. HCM thuê nhà trọ đi làm thuê (làm thợ hồ), đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân là cuộc sống khó khăn, chị Đ bỏ về quê sống cùng các con, anh Ph ở lại TP.HCM tiếp tục làm thuê gởi tiền về cho chị Đ nuôi con được khoản 2 năm, đến khi nhận được thông tin chị Đ sống không chung thủy, anh Ph về cùng mẹ vợ bà Ngh bắt gặp chị Đ ngoại tình và chính thức ly thân đến nay, từ khi ly thân đến nay anh Ph cũng tạo điểu kiện để hàn gắn, nhưng không được, từ đó mục đích hôn nhân không đạt được, nên anh Ph yêu cầu ly hôn với chị Đ là có căn cứ, do anh chị không đăng ký kết hôn nên hôn nhân của anh chị không hợp pháp do vi phạm Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình, do đó đề nghị hội đồng xét xử (HĐXX) không công nhận anh, chị là vợ chồng theo quy định tại Điều 14, Điều 53 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về con chung: Có 03 đứa tên Hồ Đan Tr, sinh ngày 29/01/2003, cháu Hồ Thị Minh Th, sinh ngáy 31/7/2005 và Hồ Thị Minh Th, sinh ngày 19/01/2008 từ trước đến giờ cả 03 con chung theo anh sinh sống và làm thuê ở TP. HCM. Nay ly hôn anh yêu cầu được tiếp tục nuôi 03 con chung, anh không yêu cầu chị Đ cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy việc trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn, vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền nghĩa vụ của mỗi bên đối với con chưa thành niên, anh chị thỏa thuận được nuôi dưỡng 03 cháu, phù hợp với nguyện vọng của 03 cháu, nên đề nghị HĐXX tiếp tục giao 03 cháu cho anh Ph chăm sóc, nuôi dưỡng đến thành niên hoặc tự lập được, theo quy định tại Điều 15 và 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về tài sản và nợ chung: không có tranh chấp nên không giải quyết Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Đ có yêu cầu được vắng mặt khi xét xử, chị có ý kiến trình bày rõ ràng yêu cầu của mình, do đó Hội đồng xét xử vắng mặt chị Đ theo Điều 228 Bộ Luật tố tụng dân sự.

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn chị Đ cư trú: ấp Phú Hiệp, TT Chợ Vàm, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Nên anh Ph khởi kiện xin ly hôn là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ Luật tố tụng Dân sự.

[1.2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: anh Ph yêu cầu ly hôn và nuôi con khi ly hôn nên quan hệ pháp luật là “ Ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ Luật tố tụng Dân sự.

[2] Về nội dung: Xét chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện, hôn nhân của anh, chị được xác lập năm 2002 trên cơ sở tự tìm hiểu, tự nguyện chung sống không tổ chức lễ cưới, không đăng ký kết hôn, sống hạnh phúc đến năm 2010 vợ chồng cùng lên TP.HCM làm thuê sinh sống, đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẩn, chị Đ bỏ về quê sinh sống cùng các con, anh Ph ở lại TP.HCM tiếp tục làm thuê gởi tiền về cho chị Đ nuôi con được khoản 2 năm, đến khi nhận được thông tin chị Đ sống không chung thủy, anh Ph về cùng mẹ vợ là bà Nghiệm bắt gặp chị Đ ngoại tình và chính thức ly thân đến nay, từ khi ly thân đến nay anh Ph cũng tạo điểu kiện để hàn gắn, nhưng không được mà mỗi người tự lo cuộc sống riêng cho mình, từ đó tình cảm vợ chồng phai nhạt, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do anh chị không đăng ký kết hôn nên không được pháp luật thừa nhận, vì hôn nhân của anh chị là hôn nhân không hợp pháp do vi phạm Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình, do đó để cho anh, chị có cuộc sống riêng, nên hội đồng xét xử (HĐXX) không công nhận anh, chị là vợ chồng theo quy định tại Điều 14, Điều 53 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

- Về quan hệ con chung: Có 03 đứa tên Hồ Đan Tr, sinh ngày 29/01/2003, cháu Hồ Thị Minh Th, sinh ngáy 31/7/2005 và Hồ Thị Minh Th, sinh ngày 19/01/2008 từ trước đến giờ cả 03 con chung theo anh sinh sống và làm thuê ở TP. HCM. Nay ly hôn anh yêu cầu được tiếp tục nuôi 03 con chung, anh không yêu cầu chị Đ cấp dưỡng nuôi con, chị Đ đồng ý. HĐXX xét thấy việc trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn, vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền nghĩa vụ của mỗi bên đối với con chưa thành niên, anh chị thỏa thuận được người nuôi dưỡng con chung chưa thành niên, phù hợp với nguyện vọng của 03 cháu, nên HĐXX tiếp tục giao 03 cháu cho anh Ph chăm sóc, nuôi dưỡng đến thành niên hoặc tự lập được, theo quy định tại Điều 15 và 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

- Về quan hệ tài sản chung; nợ chung phải thu, phải trả: Các bên không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Ghi nhận lời trình bày đương sự không có nợ chung, nhưng sau khi Bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì anh Ph và chị Đ phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

Ngoài ra, các bên không tranh chấp về vấn đề gì khác nên không đặt ra xem xét.

[3] Về án phí: Anh Hồ Văn Ph là người xin ly hôn nên phải chịu án phí ly hôn theo quy định pháp luật.

Vì những lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 9; Điều 14; Điều 53 và Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm2014;

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ Luật tố tụng Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án Dân sự;

- Căn cứ Điều 26; Điều 27; Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, - Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận anh Hồ Văn Ph (tự Ph) và chị Nguyễn Thị Đ (tự Đ) là vợ chồng.

- Về quan hệ con chung: Tiếp tục giao 03 cháu Hồ Đan Tr, sinh ngày 29/01/2003, cháu Hồ Thị Minh Th, sinh ngáy 31/7/2005 và Hồ Thị Minh Th, sinh ngày 19/01/2008 cho anh Hồ Văn Ph (Ph) nuôi dưỡng đến thành niên hoăc tự lập được, chị Đ (Đẵng) không phải cấp dưỡng cho con.

- Về quan hệ tài sản và nợ chung: không đặt ra để giải quyết - Về án phí sơ thẩm: anh Hồ Văn Ph phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu số 0004001 ngày 08/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, chị Nguyễn Thị Đ không phải chịu án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ tuyên án. Riêng chị Đ được quyền kháng cáo kể từ ngày ngày tống đạt hoặc niêm yết bản sao bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn số 355/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:355/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về