Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn số 12/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ R, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 12/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/02/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 16 tháng 02 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã R xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 16/2021/TLST- DS ngày 01 tháng 12 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2022/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị A, sinh năm 1986. Địa chỉ: Ấp K, xã T, thị xã R, tỉnh Bạc Liêu. (có mặt)

- Bị đơn: Anh B, sinh năm 1983. Địa chỉ: Ấp K, xã T, thị xã R, tỉnh Bạc Liêu (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị A trình bày: Chị A và anh B chung sống với nhau như vợ chồng, có đăng ký kết hôn vào ngày 18/12/2007, tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện GR (nay là thị xã R), tỉnh Bạc Liêu. Trong quá trình chung sống có 02 con chung: Cháu C sinh ngày 24/9/2008; cháu D, sinh ngày 07/8/2011. Trong thời gian đầu chung sống vợ chồng, anh chị sống rất hạnh nhưng, nhưng vào năm 2020 chị A phát hiện anh B có mối quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, từ đó cho đến nay anh B không quan tâm đến đời sống vợ chồng và con. Chị A và anh B cũng đã sống ly thân được 07 tháng nay. Do đó, chị A nhận thấy cuộc sống hôn nhân giữa chị và anh B không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh B. Về con chung: Cháu C sinh ngày 24/9/2008; cháu D sinh ngày 07/8/2011 khi ly hôn chị A yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi hai con. Về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh B dù đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án cũng như vắng mặt tại phiên toà xét xử, nên Toà án không thể ghi nhận ý kiến của anh B.

Tại phiên toà chị A vẫn giữ nguyên nội dung yêu cầu khởi kiện.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án thì Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật Tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử, xác định đúng thẩm quyền, đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thực hiện đúng quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử. Tuy nhiên, về việc gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát còn vi phạm theo Điều 220 Bộ luật Tố tụng dân sự, cần rút kinh nghiệm.Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định đảm bảo quyền lợi cho những người tham gia tố tụng tại phiên tòa. Từ khi thụ lý đến khi xét xử những nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 và 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng bị đơn vắng mặt nên áp dụng Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu của chị Bé Tư được ly hôn với anh B. Về con chung: Giao 02 cháu C sinh ngày 24/9/2008 và cháu D, sinh ngày 07/8/2011 cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục. Anh B không phải chấp dưỡng nuôi con do chị A không yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ yêu cầu của đương sự tại phiên tòa, ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Giá Rai, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Chị A và anh B tự nguyện kết hôn, được Ủy ban nhân dân xã T, huyện R (nay là thị xã R), tỉnh Bạc Liêu cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 18/12/2007 theo đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân gia đình, là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Nay chị A khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh B và nuôi con chung, đây thuộc quan hệ “Tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn”, anh P hiện đang cư trú tại xã T , thị xã R, tỉnh Bạc Liêu, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã R theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Bị đơn anh B đã được Toà án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Về hôn nhân:

[3.1] Sau khi kết hôn hợp pháp, chị A và anh B sống với nhau hòa thuận một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn chị A xác định là do anh B có mối quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, anh B cũng không chăm lo đến đời sống vợ chồng và con chung, nên chị A và anh B đã ly thân được 07 tháng nay. Nay chị A xác định vợ chồng không còn quan tâm đến nhau, đời sống vợ chồng không hạnh phúc nên chị A đề nghị Tòa án cho chị được ly hôn với anh B.

[3.2] Hội đồng xét xử xét thấy, Tòa án đã hòa giải để chị A và anh B đoàn tụ nhưng chị A cương quyết ly hôn vì nhận thấy không còn tình cảm, tình trạng hôn nhân đã thực sự trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài. Còn anh B mặc dù đã được triệu tập hợp lệ để tham gia hòa giải nhưng vắng mặt không có lý do, nên không thể ghi nhận ý kiến của anh B. Mặc khác, hôn nhân phải dựa trên cơ sở tình yêu thương của cả hai vợ chồng, nhưng chị A cương quyết xin ly hôn, giữa chị A và anh B cũng sống ly thân thời gian dài vì vậy Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị A là phù hợp với tình trạng hôn nhân hiện nay của anh chị.

[4] Về con chung: Chị A và anh B có 02 con chung là cháu C, sinh ngày 07/8/2011; cháu D, sinh ngày 24/9/2008. Khi ly hôn chị A yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 cháu. Hội đồng xét xử xét thấy: Căn cứ biên bản xác minh Trưởng ấp K xác định hiện tại hai cháu đang sống cùng với chị A, phát triển bình thường và được đi học đầy đủ; tại biên bản ghi nhận ý kiến của hai cháu ngày 06/12/2021, hai cháu cũng có nguyện vọng được ở cùng với chị A. Thu nhập hàng tháng của chị A từ cửa hàng bán nước lộc đóng chai và tạp hoá là từ 7.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng; chị A mua bán tại nhà nên có đủ thời gian chăm sóc hai cháu. Do đó, để tránh làm sáo trộn đời sống và sự phát triển tâm sinh lý của các cháu, Hội đồng xét xử có căn cứ giao hai con chung cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh B không phải cấp dưỡng nuôi con do chị A không yêu cầu.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị A xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không có căn cứ xem xét giải quyết.

[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã R là phù hợp với quy định nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000 đồng chị A phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 5, khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng khoản 1 Điều 51 và các Điều 56, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Áp dụng khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tóa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị A được ly hôn với anh B.

2. Về con chung:

- Giao con chung là C, sinh ngày 07/8/2011 và cháu D, sinh ngày 24/9/2008 cho chị A được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục. Hai Cháu hiện đang sống cùng chị A nên được giữ nguyên.

- Anh B có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung không ai được ngăn cản.

- Anh B không phải cấp dưỡng nuôi con, do chị A không yêu cầu.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị A không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm: Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm buộc chị A có nghĩa vụ nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), chị A đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng tại Biên lai thu số: 0003749, ngày 01/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã R, tỉnh Bạc Liêu được chuyển thu án phí toàn bộ.

Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn số 12/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:12/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Giá Rai - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về