Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn số 308/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 308/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/11/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 18 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 400/2020/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình “ Ly hôn và nuôi con sau khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 147/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Thùy D, sinh năm 1999 Nơi cư trú: ấp Phú Th, xã Phú X, huyện Phú T, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Minh Tr, sinh năm 1994 Nơi cư trú: Tổ 2, ấp Phú Q, xã Phú Th, huyện Phú T, tỉnh An Giang (Chị D xin vắng mặt, anh Tr vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện và biên bản hòa giải, nguyên đơn chị Phạm Thị Thùy D trình bày: Chị và anh Nguyễn Minh Tr do mai mối và được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Phú Thành, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang ngày 18/8/2017. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung với cha mẹ anh Tr, đến năm 2020 vợ chồng cùng đi lên tỉnh Bình Dương làm công nhân thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Tr không lo làm ăn mà tham gia cờ bạc, còn khắc khe tiền bạc với chị, vợ chồng thường xuyên cải vả, chị có khuyên ngăn và cố gắng hàn gắn đến đầu năm 2020 thì mâu thuẫn trầm trọng, anh Tr không tôn trọng cha mẹ chị đến tháng 3/2020 ly thân cho đến nay. Nay tình cảm không còn, không thể hàn gắn, nên yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Minh Tr.

- Về con chung: Có 01 đứa tên Nguyễn Phạm Quỳnh L, sinh ngày 20/12/2016, từ khi ly thân đến nay sống với chị. Khi ly hôn chị D yêu cầu được tiếp tục nuôi con, yêu cầu anh Tr cấp dưỡng cho con.

- Về tài sản chung và nợ phải thu, phải trả: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Anh Nguyễn Minh Tr trình bày: thời gian chung sống và con chung như chị D trình bày, anh cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị D, con chung anh yêu cầu nuôi dưỡng, không yêu cầu chị D cấp dưỡng, tài sản tự thỏa thuận

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân:

- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định pháp luật, Tuy nhiên anh Tr vắng mặt suốt quá trình tố tụng là chấp hành pháp luật chưa nghiêm, chị D có đơn xin vắng mặt khi xét xử là phù hợp với Điều 228 Bộ Luật tố tụng dân sự đề nghị HĐXX xét xử vắng cả hai anh chị.

- Về nội D: Hôn nhân của anh, chị được xác lập do mai mối và được cha mẹ hai bên tổ chức lể cưới vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Phú Thành, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang ngày 18/8/2017. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung với cha mẹ anh Tr, đến năm 2020 vợ chồng cùng lên tỉnh Bình Dương làm công nhân, thì phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân là do anh Tr không lo làm ăn chăm sóc gia đình mà thường xuyên tham tệ nạn xã hội còn khắc khe tiền bạc, vợ chồng thường xuyên cải vả, chị có khuyên ngăn và cố gắng hàn gắn đến khoản tháng 3/2020 thì mâu thuẫn trầm trọng, anh Tr không biết sửa chữa và không tôn trọng cha mẹ chị, nên vợ chồng đã sống ly thân từ đó cho đến nay, từ khi ly thân đến nay anh chị không tạo điều kiện để hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị D yêu cầu ly hôn với anh Tr là có căn cứ phù hợp với lời trình bày của bà Phạm Cúc H (cô ruột chị D), đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Về con chung: Có 01 đứa tên Nguyễn Phạm Quỳnh L, sinh ngày 20/12/2016, từ khi ly thân đến nay sống với chị D. Khi ly hôn chị D yêu cầu được tiếp tục nuôi con, yêu cầu anh Tr cấp dưỡng cho con theo luật định, đây là nghĩa vụ của người không nuôi con khi ly hôn, cũng phù hợp đề nghị HĐXX chấp nhận.

Về tài sản không có tranh chấp nên không giải quyết Ngoài ra các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Minh Tr đã được tống đạt các văn bản tố tụng, có ý kiến trình bày rõ yêu cầu của mình và cũng được triệu lần thứ 2 để nghe xét xử, nhưng anh vẫn vắng mặt, chị D có đơn xin được xét xử vắng mặt, chị có ý kiến trình bày rõ ràng yêu cầu của mình, việc vắng mặt của anh chị không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án, nên HĐXX xét xử vắng mặt anh, chị theo Điều 227, Điều 228 Bộ Luật tố tụng dân sự để đảm bảo quyền lợi cho các bên.

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết: hiện nay anh Tr đăng ký hộ khẩu thường trú tại: ấp Phú Quới, xã Phú Thành, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Nên chị D khởi kiện xin ly hôn là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ Luật tố tụng dân sự.

[1.2] Về quan hệ tranh chấp: Chị D xin ly hôn và giải quyết việc nuôi con nên quan hệ tranh chấp là “ Ly hôn và nuôi con sau khi ly hôn” theo quy định tại khỏan 1 Điều 28 Bộ Luật tố tụng dân sự

[2] Về nội dung: Xét chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện, hôn nhân của anh, chị được xác lập do mai mối và được cha mẹ hai bên đồng ý tổ chức lể cưới vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Phú Thành, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang ngày 18/8/2017, nên hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ khi có mâu thuẩn xảy ra, thời gian đầu chung sống hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do khi lên tỉnh Bình Dương làm công nhân anh Tr thường xuyên uống rượu, tham gia tệ nạn xã hội, gia đình có khuyên ngăn, nhưng anh Tr không thay đổi, kéo dài đến tháng 3/2020 ly thân cho đến nay, thời gian ly thân anh, chị không tạo điều kiện để hàn gắn, từ đó tình cảm vợ chồng phai nhạt, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được phù hợp với lời trình bày của bà Phạm Cúc Hoa (cô ruột chị D), nên chị D yêu cầu ly hôn là có căn cứ được chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Về con chung: Có 01 đứa tên Nguyễn Phạm Quỳnh L, sinh ngày 20/12/2016, từ khi ly thân đến nay sống với chị D. Khi ly hôn chị D yêu cầu được tiếp tục nuôi con, yêu cầu anh Tr cấp dưỡng cho con. Anh Tr cũng yêu cầu được nuôi con không yêu cầu chị D cấp dưỡng. Xét thấy việc trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng và cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn, vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đối với con chưa thành niên, theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, hiện cháu L đang sống với chị D, cháu cũng được chăm sóc nuôi dưỡng ổn định, nên HĐXX giao cháu cho chị D nuôi dưỡng, đồng thời anh Tr là người không nuôi con nên phải cấp dưỡng cho cháu L mỗi tháng 750.000đ khi bản án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu L trưởng thành hoặc tự lập được.

Về quan hệ tài sản chung; nợ chung phải thu, phải trả: Các bên không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án chị D có trình bày vợ chồng có tài sản chung có cho cha ruột anh Tr mượn, nhưng Tòa án thông báo cho chị làm đơn yêu cầu và nộp tạm ứng án phí để giải quyết, nhưng chị không thực hiện, nên không đủ điều kiện thụ lý giải quyết chung trong vụ án này, khi có tranh chấp thì giải quyết ở vụ án khác.

Về nợ chung: Ghi nhận chị D khai không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì chị D và anh Tr phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án khác.

[3] Về án phí: Chị D là người xin ly hôn, nên phải chịu án phí theo quy định pháp luật. Anh Tr là người phải cấp dưỡng cho con nên anh cũng phải chịu án phí theo quy định Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 56 và Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ Luật tố tụng Dân sự 2015;

- Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án dân sự;

- Căn cứ Điều 26, khoản 5 Điều 27, Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn và nuôi con khi ly hôn của chị Phạm Thị Thùy D đối với anh Nguyễn Minh Tr.

- Về quan hệ hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Phạm Thị Thùy D với anh Nguyễn Minh Tr.

- Về quan hệ con chung: Giao cháu Nguyễn Phạm Quỳnh L, sinh ngày 20/12/2016 cho chị Phạm Thị Thùy D tiếp tục nuôi dưỡng đến thành niên hoặc tự lập được, anh Nguyễn Minh Tr phải cấp dưỡng cho cháu L mỗi tháng 750.000đ, kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu thành niên hoặc tự lập được.

- Về quan hệ tài sản chung; nợ chung phải thu, phải trả: không có.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phạm Thị Thùy D phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn, được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001592 ngày 13/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân, anh Nguyễn Minh Tr phải chịu 300.000đ án phí cấp dưỡng (anh phải nộp).

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản sao bản án.

Trường hợp bản án, được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sư, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn số 308/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:308/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về