TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 96/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/12/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 09 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 23/2019/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 02 năm 2019, về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2019/QĐXX-ST, ngày 12 tháng 11 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số: 38/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn R, sinh năm 1994.
Địa chỉ: Ấp 1, xã 2, huyện 3, tỉnh Hậu Giang. (Có mặt).
2. Bị đơn: Ông H, sinh năm 1985.
Địa chỉ: Số Q, đường T, khóm D, phường B, khu L, thành S, Đài Loan. (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và các lời khai có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn R trình bày: Bà và ông H có đăng kết hôn tại Ủy ban nhân dân huyện 3, tỉnh Hậu Giang vào ngày 22 tháng 8 năm 2018. Sau khi kết hôn, ông H trở về Đài Loan, bà vẫn sinh sống tại Việt Nam. Từ đó đến nay bà cũng không liên lạc được với ông H. Nay bà R yêu cầu được ly hôn với ông H.
Về con chung; tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn R khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn là ông H, từ khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành ủy thác tư pháp cho Bộ Tư pháp lãnh thổ Đài Loan tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng kết quả ủy thác tư pháp không được do địa chỉ không chính xác. Bà Nguyễn R không thể cung cấp đúng địa chỉ ông H cho Tòa án và có yêu cầu Tòa án thực hiện thủ tục thông báo nội dung khởi kiện trên cổng thông tin điện tử của Tòa án; Cổng thông tin điện tử của Văn phòng Kinh tế - Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc, Đài Loan và trên kênh VOV5 Ban đối ngoại của Đài tiếng nói Việt Nam nhưng ông H vắng mặt và cũng không có gửi văn bản nêu ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn R đến Tòa án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và đương sự đã chấp hành đúng các quy định pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết cho bà Nguyễn R được ly hôn với ông H theo quy định pháp luật; về con chung, tài sản chung và nợ chung, do đương sự khai không có nên đề nghị không xem xét, giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét và kết quả hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà Nguyễn R, địa chỉ thường trú tại Ấp 1, xã 2, huyện 3, tỉnh Hậu Giang, có đơn khởi kiện xin ly hôn với ông H là người có quốc tịch Trung Quốc (Đài Loan) và đang cư trú tại Đài Loan nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang.
[2] Bị đơn ông H đã được Tòa án tiến hành thực hiện ủy thác tư pháp cho Bộ Tư pháp lãnh thổ Đài Loan tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng kết quả ủy thác tư pháp không được do địa chỉ không chính xác. Bà Nguyễn R không thể cung cấp đúng địa chỉ ông H cho Tòa án và có yêu cầu Tòa án thực hiện thủ tục thông báo nội dung khởi kiện trên cổng thông tin điện tử của Tòa án; Cổng thông tin điện tử của Văn phòng Kinh tế - Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc, Đài Loan và trên kênh VOV5 Ban đối ngoại của Đài tiếng nói Việt Nam. Do đó, căn cứ vào điểm c khoản 6 Điều 477 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xét xử vắng mặt ông H.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:
[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn R và ông H chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân huyện 3, tỉnh Hậu Giang vào ngày 22 tháng 8 năm 2018 nên quan hệ hôn nhân của ông, bà là hợp pháp và được pháp luật Việt Nam thừa nhận. Sau khi kết hôn, ông H trở về Đài Loan, bà Nguyễn R vẫn sinh sống tại Việt Nam và hai bên cũng không liên lạc được với nhau. Từ đó cho thấy tình cảm giữa bà Nguyễn R và ông H không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn R được ly hôn với ông H là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam.
[3.2] Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn R khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn R phải chịu 300.000 đồng.
[5] Về lệ phí ủy thác tư pháp: Bà Nguyễn R phải chịu 200.000 đồng.
[6] Về chi phí đăng tin thông báo nội dung khởi kiện trên cổng thông tin điện tử của Tòa án; Cổng thông tin điện tử của Văn phòng Kinh tế - Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc, Đài Loan và trên kênh VOV5 Ban đối ngoại của Đài tiếng nói Việt Nam: Bà Nguyễn R phải chịu 2.133.500 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 37, Điều 147, Điều 470, Điều 474, Điều 477, Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 27, Điều 44 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Thông tư số 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 19/10/2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự.
Áp dụng: Điều 51, Điều 56 và Điều 122 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn R được ly hôn với ông H.
2. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn R phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), chuyển tiền tạm ứng án phí bà Nguyễn R đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0020065 ngày 27 tháng 02 năm 2019 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hậu Giang thành án phí.
3. Lệ phí ủy thác tư pháp: Bà Nguyễn R phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng), chuyển tiền tạm ứng lệ phí ủy thác tư pháp bà Nguyễn R đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0009005 ngày 19 tháng 3 năm 2019 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hậu Giang thành lệ phí ủy thác tư pháp.
4. Về chi phí đăng tin thông báo nội dung khởi kiện trên cổng thông tin điện tử của Tòa án; Cổng thông tin điện tử của Văn phòng Kinh tế - Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc, Đài Loan và trên kênh VOV5 Ban đối ngoại của Đài tiếng nói Việt Nam: Bà Nguyễn R phải chịu 2.133.500 đồng (đã nộp xong).
5. Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 96/2019/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 96/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hậu Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/12/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về