Bản án về tranh chấp ly hôn số 46/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 46/2022/HNGĐ-ST NGÀY 09/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 09 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 292/2021/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 4 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 13/4/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Đặng Vũ T, sinh năm 1982. Địa chỉ thường trú: Ấp B, xã S, huyện C, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thu T, sinh năm 1984.

Địa chỉ thường trú: Ấp B, xã S, huyện C, tỉnh Đồng Nai. Địa chỉ tạm trú: Tổ M, ấp T, xã L, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

(Anh T, chị T vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai, nguyên đơn anh Đặng Vũ T trình bày:

Anh và chị Nguyễn Thu T kết hôn với nhau năm 2004, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện B, tỉnh Bến Tre, được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 629/TLKH-BS ngày 05/12/2019. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống. Mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng nên anh yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Về con chung: Anh và chị T có 02 con chung là Đặng Nguyễn Vũ B, sinh ngày 10/3/2008 và Đặng Nguyễn Vũ B, sinh ngày 24/6/2010. Ly hôn, anh yêu cầu giao cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, anh cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng/ 01 cháu.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

- Tại bản tự khai, bị đơn chị Nguyễn Thu T trình bày: Chị và anh Đặng Vũ T kết hôn với nhau năm 2004, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn. Trong quá trình chung sống anh T có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, chị và anh T đã sống ly thân từ năm 2016 đến nay. Anh T yêu cầu ly hôn chị không đồng ý do nguyên nhân mâu thuẫn là anh T gây ra còn chị vẫn muốn hàn gắn tình cảm gia đình.

Về con chung: Có 02 con chung là Đặng Nguyễn Vũ B, sinh ngày 10/3/2008 và Đặng Nguyễn Vũ B, sinh ngày 24/6/2010. Trường hợp Tòa án giải quyết ly hôn Ly hôn thì yêu cầu được nuôi 02 con chung, anh T cấp dưỡng nuôi con chung tùy theo khả năng của anh T.

Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký Tòa án kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng quy định pháp luật. Trong vụ án này, các đương sự được xác định đúng tư cách pháp lý, đảm B việc thu thập chứng cứ, việc cấp tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ cho đương sự và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp nghiên cứu đúng thời gian quy định.

Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn anh Đặng Vũ T.

Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao 02 con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh T cấp dưỡng nuôi 02 con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng.

Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không có yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn anh Đăng Vũ T và bị đơn chị Nguyễn Thu T đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ các Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Đặng Vũ T và chị Nguyễn Thu T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân xã V, huyện B, tỉnh Bến Tre cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 629/TLKH-BS ngày 05/12/2019, nên được xác định là hôn nhân hợp pháp.

Theo anh T trình bày thì sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống. Mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng nên anh yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Theo chị T trình bày thì trong quá trình vợ chồng chung sống anh T có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, chị và anh T đã sống ly thân từ năm 2016 đến nay. Anh T yêu cầu ly hôn chị không đồng ý do nguyên nhân mâu thuẫn là anh T gây ra còn chị vẫn muốn hàn gắn tình cảm gia đình.

Theo kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Long Phước thể hiện trong quá trình chung sống giữa anh T và chị T có phát sinh mâu thuẫn hay không thì địa phương không nắm được. Xét lời khai của các đương sự cũng như các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, có căn cứ xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Đặng Vũ T và chị Nguyễn Thu T là có thật. Tòa án đã nhiều lần triệu tập và thông báo về phiên hòa giải để tạo điều kiện cho anh T và chị T hòa giải, hàn gắn đoàn tụ nhưng các đương sự đều vắng mặt nên không hòa giải được, đồng thời anh T vẫn cương quyết xin ly hôn, anh T và chị T đều thừa nhận vợ chồng đã ly thân từ năm 2016 đến nay, cho thấy mâu thuẫn đã thực sự trầm trọng. Xét thấy mục đích hôn nhân không đạt được, nên có cơ sở chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh T.

[3] Về con chung: Anh T và chị T có 02 con chung là Đặng Nguyễn Vũ B, sinh ngày 10/3/2008 và Đặng Nguyễn Vũ B, sinh ngày 24/6/2010. Anh T và chị T thống nhận ý kiến giao 02 con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh T cấp dưỡng nuôi con chung theo khả năng của T là 1.000.000 đồng/ 01 cháu/01 tháng.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý và giấy triệu tập làm việc đối với anh B để anh B có ý kiến về nội dung khởi kiện của chị T, trong đó có vấn đề về con chung, tuy nhiên anh B không đến tòa làm việc và không có ý kiến, do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào lời khai và các chứng cứ do chị T cung cấp cũng như các chứng cứ do Tòa án thu thập để xem xét, giải quyết.

Xét thấy, hiện cháu B còn nhỏ nên giao cho mẹ nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp tạo điều kiện phát triển tốt nhất cho cháu, đồng thời theo lời khai của cháu Lê Quốc B cũng thể hiện nguyện vọng cháu muốn được ở cùng với mẹ. Do đó, giao 02 con chung cho chị Hồ Thị Thu T trực tiếp nuôi dưỡng. Về vấn đề cấp dưỡng, chị T yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi 02 con chung mỗi tháng 4.000.000 đồng (mỗi cháu 2.000.000 đồng/tháng), theo kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân xã P thể hiện anh B có nghề nghiệp là thợ hồ, xét thu nhập trung bình của công việc phổ thông mà anh B đang làm và chi phí nuôi dưỡng 02 con chung, nhận thấy yêu cầu cấp dưỡng của chị B như trên là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Theo chị T trình bày tài sản chung chị và anh B tự thỏa thuận, về nợ chung không có, anh B vắng mặt và không có ý kiến. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Các đương sự được quyền khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết vấn đề tài sản chung và nợ chung bằng vụ án khác khi có tranh chấp.

[5] Về án phí: Chị Hồ Thị Thu T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Anh Lê Đức Trung B phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con.

[6] Nhận định của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 238, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 9, 11, 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn – chị Hồ Thị Thu T.

Về quan hệ hôn nhân: chị Hồ Thị Thu T được ly hôn với anh Lê Đức Trung B.

Về con chung: Giao 02 con chung là Lê Quốc B, sinh ngày 04/10/2004 và Lê B Hạ Mây, sinh ngày 27/6/2016 cho chị Hồ Thị Thu T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Anh Lê Đức Trung B có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung định kỳ hàng tháng với mức cấp dưỡng đối với 02 con chung là 4.000.000 (bốn triệu) đồng/tháng (mỗi con chung là 2.000.000 (hai triệu) đồng/tháng). Thời hạn cấp dưỡng kể từ ngày 04/01/2022 đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình .

Anh Lê Đức Trung B được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết, các đương sự được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

Kể từ ngày chị T có đơn yêu cầu thi hành án, nếu anh B chưa T toán số tiền cấp dưỡng nêu trên thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị Hồ Thị Thu T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí sơ thẩm chị T đã nộp tại biên lai số 0005132 ngày 09/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Thành. Chị T đã nộp đủ án phí.

Anh Lê Đức Trung B phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con.

Chị Hồ Thị Thu T và anh Lê Đức Trung B được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 46/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:46/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về