Bản án về tranh chấp ly hôn số 23/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 23/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/02/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 23 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 359/2021/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 11 năm 2021 về việc: “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 150/2022/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2022/QĐST- HNGĐ ngày 24 tháng 01 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc M, sinh năm 1999, (có đơn xin vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp 7, xã T, thị xã C, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu H, sinh năm 1998, (vắng mặt); Địa chỉ: Ấp 4, xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 11/11/2021, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc M trình bày:

Chị và anh Nguyễn Hữu H xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 2018, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Cường, huyện Cai Lậy. Thời gian đầu anh chị chung sống hạnh phúc đến khi chị sinh con thứ hai thì anh chị phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H thay đổi tính tình, ham chơi đá gà, không lo làm ăn để chăm lo cho các con. Đầu năm 2021, chị phát hiện anh H có mối quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Mặc dù chị nhiều lần khuyên nhủ anh sửa đổi nhưng không có kết quả. Vì quá sức chịu đựng nên chị đã về nhà mẹ ruột sinh sống từ tháng 03/2021 đến nay và cũng từ thời gian này anh chị sống ly thân nhau. Nhận thấy cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Hữu H.

- Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Gia P , sinh ngày 20/02/2018 và Nguyễn Thị Bảo N, sinh ngày 06/01/2021. Khi ly hôn, chị M yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị Bảo N, chị M đồng ý giao cháu Nguyễn Gia P cho anh H nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do bận công việc không thể tham gia phiên tòa nên chị M có đơn yêu cầu xin được vắng mặt trong quá trình xét xử.

* Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án nêu r yêu cầu của nguyên đơn, đơn khởi kiện, bản tự khai, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo kết quả phiên họp về việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh H vắng mặt không lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị M.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ lời trình bày của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị M có đơn yêu cầu ly hôn với anh H, bị đơn anh H có cư trú tại ấp 4, xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Do đó, quan hệ pháp luật trong vụ án được xác định là “Tranh chấp ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Tại phiên tòa, anh H vắng mặt lần thứ 2 mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ; đồng thời chị M có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên căn cứ vào điểm a, b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị M là có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận, bởi lẽ:

3.1. Về quan hệ hôn nhân: Chị M và anh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân xã P, huyện C cấp giấy chứng nhận kết hôn số 69 vào ngày 10/9/2018, được xem là hôn nhân hợp pháp.

Căn cứ vào lời khai của chị M thì sau khi kết hôn, chị và anh H chung sống hạnh phúc được một thời gian, đến năm 2021 thì anh chị bắt đầu phát sinh mâu thuẫn và sống ly thân từ tháng 3/2021 đến nay. Chị M về nhà cha mẹ ruột sinh sống, kể từ thời gian này anh chị không ai quan tâm đến cuộc sống của nhau nữa, chứng tỏ giữa chị M và anh H đã không còn tình cảm vợ chồng, việc kéo dài hôn nhân sẽ không mang lại hạnh phúc cho cả hai.

Theo quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau.....”. Do đó, việc chị M và anh H thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và sống ly thân trong thời gian dài chứng tỏ hôn nhân giữa hai người đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được.

Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án đã tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng cho anh H, mở phiên hòa giải để hàn gắn mâu thuẫn cho các bên nhưng anh H vắng mặt không lý do và cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình về việc ly hôn, từ đó cho thấy anh H không có ý định hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị M. Do đó, chị M yêu cầu xin ly hôn với anh H là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

3.2. Về con chung: Quá trình chung sống chị M và anh H có 02 con chung tên Nguyễn Gia P, sinh ngày 20/02/2018 và Nguyễn Thị Bảo N, sinh ngày 06/01/2021. Xét thấy, từ khi chị M, anh H sống ly thân thì cháu P đã sống với anh H còn cháu N thì sống với chị M, để tiếp tục ổn định cuộc sống cho cháu P và cháu N, đồng thời tránh xáo trộn về mặt tâm lý cho trẻ con, giúp cho 02 cháu có được sự phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần. Đồng thời cháu N dưới 36 tháng tuổi, còn rất nhỏ nên cần sự chăm sóc của người mẹ. Theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình thì con dưới 36 tháng tuổi giao cho mẹ nuôi dưỡng. Do đó, chị M yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N, giao cháu P cho anh H nuôi dưỡng là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

3.3. Về cấp dưỡng: Chị M chưa yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3.4. Về tài sản chung, nợ chung: Chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết .

[4] Về án phí: Chị M phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Ngọc M.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Ngọc M được ly hôn với anh Nguyễn Hữu H.

2. Về con chung:

- Giao con chung tên Nguyễn Gia P, sinh ngày 20/02/2018 cho anh Nguyễn Hữu H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

- Giao con chung tên Nguyễn Thị Bảo N, sinh ngày 06/01/2021 cho chị Nguyễn Thị Ngọc M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng Chị Nguyễn Thị Ngọc M, anh Nguyễn Hữu H được quyền thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được quyền ngăn cản.

3. Về cấp dưỡng: Chị M, anh H chưa phải cấp dưỡng nuôi con do chị M, anh H chưa có yêu cầu.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

5. Về án phí: Chị M phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm được trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001440 ngày 24/11/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang nên chị M đã nộp xong án phí.

6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 23/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:23/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về