TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 135/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/02/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Trong ngày 08 tháng 02 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Củ C, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 549/2021/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2021 về việc: “Tranh chấp về ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 375/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 16/2022/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 01 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thúy H, sinh năm 1989 (có mặt).
Địa chỉ: Số 126/5B, tổ 5, ấp 4, xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: ng Nguyễn Quốc C, sinh năm 1991 (vắng mặt). Thường trú: Tổ 1, ấp X, xã A, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ liên lạc: Số 443/2A, ấp G, xã A, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Tại Đơn xin ly hôn ngày 06/5/2021 và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thúy H trình bày sự việc như sau:
Bà (Nguyễn Thúy H) và ông Nguyễn Quốc C kết hôn năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh, Giấy Chứng nhận kết hôn số: 142, quyền số: 02/2011, ngày 19/10/2012.
Sau khi kết hôn, vợ chồng bà sống nhà riêng bên chồng tại ấp X, xã A, huyện C. Cuộc sống vợ chồng bà xảy ra nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau vì bất đồng quan điểm, không hợp nhau. Năm 2019 bà có nộp đơn xin ly hôn nhưng sau đó rút đơn vì bà phải đi làm, không có điều kiện đến Tòa án nhiều lần và Tòa án đã đình chỉ giải quyết vụ án. Nay bà tiếp tục xin ly hôn vì bà và ông C chỉ còn trên danh nghĩa vợ chồng, thực tế đã ly thân và bà dọn về nhà ba mẹ ruột của bà sống từ năm 2018 cho đến nay. Vì mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không còn yêu thương nhau nên bà yêu cầu được ly hôn với ông C.
Về con chung: Bà và ông C không có con chung.
Về tài sản chung: Bà và ông C không có tài sản chung.
Về nghĩa vụ dân sự chung: Bà và ông C không có nghĩa vụ dân sự chung.
- Trong suốt quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị đơn ông Nguyễn Quốc C không có mặt nên không có lời khai của ông C.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Đây là vụ kiện: “Tranh chấp về ly hôn” được quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn trong vụ kiện ông Nguyễn Quốc C hiện có địa chỉ tại huyện Củ C, Thành phố Hồ Chí Minh nên căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án số 549/TB-TA ngày 13/5/2021; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 375/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2021 kèm giấy triệu tập và Quyết định hoãn phiên tòa số 16/2022/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 01 năm 2022 kèm giấy triệu tập nhưng tại phiên tòa hôm nay, bị đơn ông Nguyễn Quốc C vắng mặt mà không rõ lý do. Căn cứ Khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt ông C.
[2] Về nội dung:
Xét yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thúy H về việc yêu cầu ly hôn với bị đơn ông Nguyễn Quốc C, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về quan hệ hôn nhân:
Bà Nguyễn Thúy H và ông Nguyễn Quốc C kết hôn năm 2012, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã A, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận kết hôn số: 142, quyền số: 02/2011, ngày 19/10/2012, nên là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật thừa nhận.
Tại đơn xin ly hôn cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn bà H khai rằng cuộc sống vợ chồng bà xảy ra nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau vì bất đồng quan điểm, không hợp nhau. Bà và ông C đã ly thân, bà dọn về nhà ba mẹ ruột của bà sống từ năm 2018 cho đến nay. Vì mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không còn yêu thương nhau nên bà yêu cầu được ly hôn với ông C.
Xét thấy, vợ chồng phải có nghĩa vụ sống chung với nhau, thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau Ca sẻ, tạo dựng hạnh phúc gia đình, nhưng cuộc sống vợ chồng giữa bà H và ông C có nhiều mâu thuẫn. Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, ông C đều không có mặt mà không có lý do, điều này thể hiện ông C không có thiện chí trong việc hàn gắn tình cảm vợ chồng với bà H.
Từ phân tích trên, có đủ cơ sở xác định hôn nhân giữa bà H và ông C không còn hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, chấp nhận yêu cầu bà H là có cơ sở.
- Về con chung:
Bà H khai giữa bà và ông C không có con chung nên không xét.
- Về tài sản chung:
Bà H khai giữa bà và ông C không có tài sản chung nên không xét.
- Về nghĩa vụ dân sự chung:
Bà H khai giữa bà và ông C không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xét.
[3] Về án phí:
Bà H phải nộp tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/10/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Khoản 3 Điều 228, Điều 271, Khoản 1 Điều 273, Điều 278, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 51, Khoản 1 Điều 56, Điều 57 Luật Hôn nhân và Gia đình;
- Căn cứ Điều 6, 7, 26, 30, 31, 32 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thúy H.
- Về quan hệ hôn nhân:
Bà Nguyễn Thúy H được quyền ly hôn với ông Nguyễn Quốc C.
Giấy Chứng nhận kết hôn số: 142, quyển số: 02/2011, ngày 19/10/2012 do Ủy ban nhân dân xã A, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà H và ông C không còn giá trị pháp lý.
- Về con chung:
Bà H khai giữa bà H và ông C không có con chung nên không xét.
- Về tài sản chung:
Bà H khai giữa bà H và ông C không có tài sản chung nên không xét.
- Về nghĩa vụ dân sự chung:
Bà H khai giữa bà H và ông C không có nghĩa vụ dân sự chung nên không xét.
2. Về án phí:
Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm buộc bà H phải nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0086210 ngày 13/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Củ C, bà H đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Thi hành tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
3. Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt tại phiên tòa (ông Nguyễn Quốc C) được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án
Bản án về tranh chấp ly hôn số 135/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 135/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/02/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về