Bản án về tranh chấp ly hôn số 10/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 10/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/03/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 04 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 227/2021/TLST-HNGĐ, ngày 19 tháng 11 năm 2021, về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 19 tháng 01 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị M; địa chỉ: Khóm TQH, phường TA, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long; có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Lê Anh Ch - Văn phòng luật sư Lê Anh Ch thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Vĩnh Long; có mặt.

2. Bị đơn: Ông Diệp Hoàng H; địa chỉ nơi ĐKHKTT: Khóm TQH, phường TA, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long. Địa chỉ nơi cư trú: Khóm TQH, phường TA, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 26/10/2021 nguyên đơn Lê Thị M trình bày:

Về hôn nhân: Bà và ông Diệp Hoàng H tự tìm hiểu nhau sau đó tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TA, thị xã V (nay là phường TA, thành phố V), tỉnh Vĩnh Long ngày 18/8/2008. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc, nhưng sau đó thì phát sinh mâu thuẫn. Vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 3/2021. Các mâu thuẫn lớn làm gián đoạn cuộc sống hạnh phúc, do ông H quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Bà nhiều lần muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng ông H vẫn không thay đổi, hai bên chưa khắc phục mâu thuẫn trên.

Tình trạng sống chung hiện nay, cuộc sống của ai tự lo, vợ chồng đã ly thân từ tháng 3/2021 cho đến nay. Ông H sống tại địa chỉ khóm TQH, phường TA, thành phố V. Còn bà sinh sống tại địa chỉ khóm TQH, phường TA, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long. Nay bà nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố V giải quyết cho bà ly hôn với ông H.

Về con chung: Có 02 người con chung tên Diệp Lê Như Y, sinh ngày 06/5/2009 và Diệp Vĩnh C, sinh ngày 31/01/2013. Khi ly hôn bà yêu cầu trực tiếp nuôi 02 con chung. Bà yêu cầu ông H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi 02 cháu Diệp Lê Như Y và Diệp Vĩnh C mỗi tháng 1.600.000 đồng cho đến khi cháu Như Y và cháu Vĩnh C đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung gồm có:

- Căn nhà cấp 4 gắn liền diện tích 263,8m2 (đất ở 200,0m2, đất trồng cây lâu năm 63,8m2); thửa số 120; tờ bản đồ số 45; tọa lạc tại khóm TQH, phường TA, thành phố V.

- Căn nhà cấp 4 gắn liền diện tích 196,1m2 (đất ở 100,0m2, đất trồng cây lâu năm 96,1m2); thửa số 121; tờ bản đồ số 45; tọa lạc tại khóm TQH, phường TA, thành phố V.

- 01 xà lan 60 tấn.

Bà M yêu cầu Tòa án giải quyết chia đôi mỗi người được nhận ½ (50% tổng giá trị tài sản chung).

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung đề ngày 31/12/2021 nguyên đơn Lê Thị M trình bày: Bà không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con và về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, nguyên đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Bị đơn ông Diệp Hoàng H: Tòa án tống đạt thông báo thụ lý, thông báo ngày mở phiên họp việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải hợp lệ nhiều lần nhưng ông H đều vắng mặt, không cung cấp chứng cứ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền loại việc: Căn cứ khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[1.2] Về thẩm quyền theo lãnh thổ: Bị đơn ông Diệp Hoàng H cư trú tại địa chỉ khóm TQH, phường TA, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Long.

[1.3] Về sự có mặt của đương sự:

Bị đơn Diệp Hoàng H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[1.4] Về rút một phần yêu cầu khởi kiện của đương sự: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, bà Lê Thị M xin rút yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con và chia tài sản chung. Xét thấy, việc rút yêu cầu của bà Mười là tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện của bà M. [2] Về hôn nhân:

Bà Lê Thị M với ông Diệp Hoàng H kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã TA, thị xã V (nay là phường TA, thành phố V), tỉnh Vĩnh Long ngày 18/8/2008. Do đó, quan hệ hôn nhân của bà M và ông H là hôn nhân hợp pháp. Cuộc sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng không còn. Bà M xác định vợ chồng ly thân từ tháng 3/2021 cho đến nay.

Đối chiếu với quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”, nhưng giữa bà M và ông H mâu thuẫn vợ chồng kéo dài, vẫn không hàn gắn được. Như vậy, có cơ sở để xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa bà M và ông H là có thật, tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không có khả năng đoàn tụ. Mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà M ly hôn với ông H là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về nuôi con chung: Xét thấy, bà M và ông H ly thân từ tháng 3/2021 cho đến nay, trong thời gian đó cháu Như Y và cháu Vĩnh C sống với bà M, cuộc sống của 02 cháu đang ổn định. Do đó, việc giao 02 cháu cho bà M được tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của 02 cháu và phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên có cơ sở chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà M không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con, nên nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con không đặt ra giải quyết.

[4] Về chia tài sản: Bà Lê Thị M không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra giải quyết.

[5] Về nợ chung: Bà Lê Thị M khai không có, nên không đặt ra giải quyết.

[6] Về án phí:

Nguyên đơn yêu cầu ly hôn với bị đơn được Tòa án chấp nhận, theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng.

[7] Xét đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 2 Điều 244, Điều 266, Điều 273, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 9, Điều 19, khoản 1 Điều 51, các Điều 53, 56, 57, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Lê Thị M và ông Diệp Hoàng H.

2. Về nuôi con chung: Giao các cháu Diệp Lê Như Y, sinh ngày 06/5/2009 và Diệp Vĩnh C, sinh ngày 31/01/2013 cho bà Lê Thị M trực tiếp nuôi dưỡng. Ông H không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc thay đổi cấp dưỡng nuôi con.

3. Về chia tài sản: Bà Lê Thị M không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra giải quyết.

4. Về nợ chung: Bà Lê Thị M khai không có, nên không đặt ra giải quyết.

5. Về án phí: Bà Lê Thị M chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 14.300.000đ (mười bốn triệu ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000797 ngày 10/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V; bà M được hoàn trả số tiền chênh lệch là 14.000.000đ (mười bốn triệu đồng).

6. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân nơi bị đơn cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

452
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 10/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:10/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về