TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MANG THÍT, TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 92/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/08/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 25 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mang Thít xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 175/2022/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 5 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự.
1. Nguyên đơn: Chị Võ Ngọc M, sinh năm 1997 (xin vắng mặt)
Địa chỉ: ấp AH, xã AB, huyện LH, tỉnh Vĩnh Long
2. Bị đơn: Anh Trần Thế V, sinh năm 1993 (vắng mặt)
Địa chỉ: ấp CC, xã MP, huyện MT, tỉnh Vĩnh Long
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 25/5/2022, trong quá trình giải quyết vụ án và tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 08/7/2022, nguyên đơn chị Võ Ngọc M trình bày:
Vào năm 2018 chị M và anh V qua quen biết nên đã kết hôn có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Mỹ Phước, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long vào ngày 22/02/2018, theo giấy chứng nhận kết hôn số 09. Vợ chồng chung sống có 01 con chung tên Trần Võ Gia H, sinh ngày 13/5/2021 hiện do chị M nuôi dưỡng.
Sau khi cưới chị M và anh V chung sống ở nhà cha mẹ anh V ở ấp Cái Cạn, xã Mỹ Phước, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long, chung sống hạnh phúc được một thời gian thì đến năm 2021 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, mặc dù đã được cha mẹ hai bên hòa giải hàn gắn nhiều lần nhưng không đạt kết quả, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng kéo dài mục đích hôn nhân không đạt được nên chị M bỏ đi về nhà cha mẹ ruột ở ấp An Hưng, xã An Bình, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long sinh sống và ly thân từ năm 2021 đến nay không có đoàn tụ trở lại.
Nay chị M cảm thấy mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn lại được nên yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị M yêu cầu được ly hôn với anh Trần Thế V.
- Về con chung: Chị M yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Trần Võ Gia H, sinh ngày 13/5/2021, không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị M có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Sau khi thụ lý vụ án Toà án đã thông báo cho bị đơn anh Trần Thế V biết việc thụ lý vụ án cũng như các yêu cầu của chị M. Nhưng anh V không có văn bản trả lời và vắng mặt tại tất cả các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải, đồng thời đều vắng mặt tại các phiên tòa mặc dù đã được tống đạt triệu tập hợp lệ. Do đó, Tòa án không tiến hành ghi lời khai của bị đơn và hòa giải cho các đương sự được.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; bị đơn có nơi cư trú tại xã Mỹ Phước, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; quá trình tiến hành tố tụng xét xử vụ án, mặc dù đã được triệu tập tống đạt hợp lệ nhưng bị đơn đều vắng mặt không lý do. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về hôn nhân: Xét, giữa chị M và anh V chung sống có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Mỹ Phước, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa chị M và anh V là hợp pháp. Chị M cho rằng trong quá trình vợ chồng chung sống có nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp nhau dẫn đến bất đồng quan điểm sống. Từ đó mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, không khắc phục được, nên chị M bỏ đi về nhà cha mẹ ruột ở ấp An Hưng, xã An Bình, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long sinh sống và ly thân từ năm 2021 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Tòa án cũng đã tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn tụ nhưng anh V đều vắng mặt không có lý do, anh V không đến phiên tòa, thể hiện anh V đã từ bỏ quyền, nghĩa vụ của mình. Điều này cũng chứng tỏ tình cảm vợ chồng không còn, khả năng đoàn tụ là không có, tình trạng hôn nhân giữa chị M và anh V đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, xét việc chị M yêu cầu được ly hôn với anh V là có căn cứ, phù hợp theo quy định tại các Điều 9, 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2.2] Về nuôi con chung: Chị M yêu cầu được nuôi dưỡng con chung tên Trần Võ Gia H, sinh ngày 13/5/2021; xét cháu H hiện do chị M nuôi dưỡng, cháu vẫn phát triển tốt về mọi mặt, hiện cháu H còn nhỏ cần được sự chăm sóc, nuôi dưỡng của mẹ. Do đó, yêu cầu của chị M là phù hợp theo quy định tại các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con chung: chị M không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con, nên không xem xét giải quyết.
[2.4] Về quyền, nghĩa vụ về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xét.
[3] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ vào các Điều 9, 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Võ Ngọc M.
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho nguyên đơn chị Võ Ngọc M được ly hôn với bị đơn anh Trần Thế V.
2. Về nuôi con chung: Giao con chung tên Trần Võ Gia H, sinh ngày 13/5/2021 cho nguyên đơn chị Võ Ngọc M nuôi dưỡng.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Nguyên đơn chưa yêu cầu, nên không giải quyết.
4. Về quyền, nghĩa vụ về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không giải quyết.
5. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng), số tiền này được khấu trừ từ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí mà nguyên đơn đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mang Thít theo lai thu số: 0007148 ngày 25/5/2022. Nguyên đơn không phải nộp thêm tiền án phí.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 92/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 92/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mang Thít - Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về