Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 162/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 162/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 20 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 97/2022/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 3 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 111/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lưu Thị C, sinh năm 1982. Địa chỉ cư trú: Áp Bình Hưng 2, xã M, huyện P, tỉnh An Giang (Có mặt).

- Bị đơn: Ông Võ Trung T, sinh năm 1981. Địa chỉ cư trú: Ấp Bình Hưng 2, xã M, huyện P, tỉnh An Giang. Địa chỉ liên hệ hiện nay: ấp Vĩnh Bình, xã VT, huyện P, tỉnh An Giang (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 01/3/2022 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Lưu Thị C trình bày:

Về hôn nhân: Bà C và ông Võ Trung T tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 2009 có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 70, quyển số 01, đăng ký ngày 27/3/2009 do Ủy ban nhân dân xã M, huyện P, tỉnh An Giang cấp. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, thời gian sau vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã, T cảm dần nhạt phai, không còn hòa hợp, cách đây 05 năm ông T tự bỏ nhà đi làm xa, không về nhà, lâu lâu điện thoại về chỉ nói vài câu về chuyện gia đình rồi thôi. Nhận thấy T cảm vợ chồng không còn hạnh phúc và không thể hàn gắn nên bà C khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Võ Thị Kim H, sinh ngày 28/9/2011 và Võ Thành D, sinh ngày 04/3/2013. Hiện hai con chung đang sống cùng bà C. Sau ly hôn bà C yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Võ Trung T vắng mặt, tuy nhiên ông T có gửi cho Tòa án văn bản tiêu đề “đơn thỏa thuận ly hôn” đề ngày 12/4/2022 với nội dung ông đi xà lan, không về được, ở nhà vợ là bà Lưu Thị C làm đơn ly hôn, ông đồng ý ly hôn với bà C, vợ chồng không có tài sản hay nợ gì. Về hai con chung, ông được quyền tới lui thăm con, nếu sau này có suy nghĩ về con thì vợ chồng ở lại lo cho con.

* Tòa án tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông T vắng mặt nên không tiến hành hòa giải được. Đồng thời ghi nhận ý kiến của cháu Võ Thị Kim H và cháu Võ Thành D về việc có nguyện vọng muốn sống với cha hay mẹ khi cha mẹ ly hôn.

* Tại phiên tòa:

- Bà C vẫn cương quyết yêu cầu ly hôn với ông T, yêu cầu được nuôi hai con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu giải quyết.

- Bị đơn ông Võ Trung T vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

* Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện P phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Đối với người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án và có đơn xin xét xử vắng mặt, đơn trình bày ý kiến. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ vào Điều 56, Điều 58, Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho bà C được ly hôn với ông T, giao hai con chung là cháu Võ Thị Kim H và Võ Thành D cho bà C được trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: do bà C không yêu cầu nên đề nghị không xem xét. Về tài sản chung, nợ chung: do bà C không yêu cầu nên đề nghị không xem xét, giải quyết. Về án phí sơ thẩm: Đề nghị xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết:

Nguyên đơn bà Lưu Thị C khởi kiện yêu cầu ly hôn, giải quyết về con chung đối với bị đơn ông Võ Trung T nên xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”. Bị đơn ông T có địa chỉ cư trú tại xã M, huyện P, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện P thụ lý, giải quyết là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[1.2] Về sự có mặt, vắng mặt của các đương sự:

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho đương sự theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tại phiên tòa, nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân:

Bà C và ông T tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 70, quyển số 01, đăng ký ngày 27/3/2009 nên xét thấy hôn nhân giữa ông bà là hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng.

Theo Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “1. Vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện công việc trong gia đình. 2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau....”. Tuy nhiên, theo bà C trình bày khi còn sống chung, bà và ông T thường xuyên cự cãi, bất đồng quan điểm sống, phát sinh mâu thuẫn. Từ năm 2017, ông T tự bỏ nhà đi làm xa, không về nhà, không còn chung sống cùng bà C, không quan tâm đến gia đình. Bà C yêu cầu ly hôn, ông T đồng ý ly hôn. Xét thấy mối quan hệ vợ chồng giữa bà C và ông T thực tế có phát sinh mâu thuẫn, ông bà đã không còn yêu thương, tôn trọng, quan tâm nhau, không sống chung với nhau một thời gian dài. Quá trình chuẩn bị xét xử, Tòa án đã mở phiên hòa giải, tạo điều kiện cho ông bà có cơ hội hàn gắn lại T cảm với nhau nhưng ông T vẫn vắng mặt. Tại phiên tòa, bà C vẫn cương quyết yêu cầu ly hôn với ông T. Cho thấy, bà C và ông T đều không tha thiết hàn gắn, duy trì mối quan hệ hôn nhân của họ.

Từ những phân tích trên, xét thấy hôn nhân giữa bà C và ông T đã thật sự lâm vào T trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà C, cho bà C được ly hôn với ông T là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P.

[2.2] Về con chung:

Bà C và ông T có hai người con chung là cháu Võ Thị Kim H, sinh ngày 28/9/2011 và Võ Thành Duy, sinh ngày 04/3/2013. Hiện hai con đang sống cùng bà C. Xét thấy, cháu H và cháu D đang sống ổn định với bà C, ông T không có ý kiến về việc nuôi con chung, cháu H và cháu D đều có nguyện vọng được sống với mẹ. Do đó, để đảm bảo cuộc sống ổn định của con chung, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà C, giao cháu H và cháu D cho bà C trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 58, Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do bà C không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Về quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung: Căn cứ vào Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, ông T là người không trực tiếp nuôi con nhưng có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung. Bà C cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở ông T đến thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung.

Quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung và cấp dưỡng nuôi con là không cố định. Vì lợi ích của các con, theo yêu cầu của một bên, các bên hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc thay đổi về cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Bà C không yêu cầu giải quyết, ông T khai không có tài sản và nợ nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí sơ thẩm: Do bà C là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên bà C phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 235, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào Điều 19, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lưu Thị C.

- Về hôn nhân: Cho bà Lưu Thị C được ly hôn với ông Võ Trung T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 70, quyển số 01, đăng ký ngày 27/3/2009 của Ủy ban nhân dân xã M, huyện P, tỉnh An Giang cấp cho ông Võ Trung T và bà Lưu Thị C không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu luật pháp luật.

- Về con chung: Bà Lưu Thị C được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là cháu Võ Thị Kim H, sinh ngày 28/9/2011 và cháu Võ Thành D, sinh ngày 04/3/2013. Hiện hai cháu đang sống cùng bà C.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không xem xét, giải quyết.

Về quyền thăm nom, chăm sóc con chung: Ông T là người không trực tiếp nuôi con nhưng có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung. Bà C cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở ông T đến thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung.

Quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung và cấp dưỡng nuôi con là không cố định. Vì lợi ích của các con, theo yêu cầu của một bên, các bên hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc thay đổi về cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

- Về án phí sơ thẩm: Bà Lưu Thị C phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí sơ thẩm mà bà C đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án, lệ phí Tòa án số: 0003560 ngày 17 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P nên bà C không phải nộp thêm.

- Về quyền kháng cáo: Bà Lưu Thị C có quyền kháng cáo trong vòng 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Võ Trung T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 162/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:162/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về