Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 09/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 09/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/01/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 18 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 304/2021/TLST- HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2021 về “tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 279/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số 258/2021/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 12 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T (tên gọi khác Nguyễn Thị Lên), sinh năm 1980. Địa chỉ cư trú: Ấp Long Hưng, xã B, huyện P, tỉnh An Giang (Có mặt).

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1979. Địa chỉ cư trú: Ấp Long Hưng, xã B, huyện P, tỉnh An Giang (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị T trình bày:

Bà và ông Nguyễn Văn K do quen biết rồi tự nguyện kết hôn vào năm 1999, ông bà có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã B, huyện P, tỉnh An Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 09/TPHT, quyển số 01/2006 cấp ngày 16/02/2006. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc và có với nhau 02 người con chung tên Nguyễn Ngọc L, sinh ngày 24/4/1999 và Nguyễn Chí Tâm, sinh ngày 30/10/2003. Thời gian sau vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cãi vã nhau, tình cảm nhạt phai dần. Khoảng 03 năm trước, bà phát hiện ông K có quen người phụ nữ khác bên ngoài, sau đó ông K tự bỏ nhà đi, không sống chung với bà nữa, từ đó vợ chồng đã tự ly thân với nhau đến nay. Nhận thấy cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc, vợ chồng không thể nào hàn gắn lại được nữa, ai cũng muốn có cuộc sống riêng. Nên bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông K.

Về con chung: Từ khi ly thân, các con sống chung với bà, hiện các con đã thành niên và có khả năng lao động được nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Văn K đều vắng mặt, cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến cho Tòa án về vụ án.

* Toà án tiến hành xác minh, được biết ông Nguyễn Văn K vẫn còn đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp Long Hưng, xã B, huyện P, tỉnh An Giang. Tuy nhiên hiện nay ông K đi làm xa, lâu lâu vẫn về thăm nhà một vài lần. Về tình trạng hôn nhân giữa ông K và bà T thì Ban ấp không nắm rõ.

* Qua xác minh, bà Trần Thị A, sinh năm 1957 (là mẹ ruột của anh K) cho biết ông K là con ruột của bà, còn bà T là con dâu của bà, hiện ông K đi làm xa, lâu lâu về thăm nhà một vài lần rồi đi làm tiếp. Bà có nhận được các Thông báo của Tòa án gửi cho ông K và điện thoại báo tin cho ông K biết về việc bà T yêu cầu ly hôn, ông K có nói là không về được nhưng không đồng ý ký đơn ly hôn. Về mâu thuẫn giữa vợ chồng bà T, ông K như thế nào thì bà không rõ, bà chỉ biết trước đây do ông K nhậu nhẹt, rồi bà T hay ghen tuông việc ông K có người phụ nữ khác bên ngoài, từ đó vợ chồng không còn sống chung với nhau. Nhiều lần bà khuyên ngăn vợ chồng T, K sống hòa thuận. Tuy nhiên hiện nay bà T cương quyết ly hôn thì bà không có ý kiến, tùy Tòa án giải quyết theo pháp luật.

* Tòa án tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông K vắng mặt nên không tiến hành hòa giải được.

* Tại phiên tòa:

- Bà T vẫn giữ yêu cầu ly hôn với ông K do ông K, không yêu cầu giải quyết về con chung, tài sản chung và nợ chung.

- Ông K vắng mặt tại phiên toà.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P phát biểu ý kiến như sau:

+ Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tuy nhiên về việc gửi Thông báo thụ lý vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp còn chậm so với thời gian quy định nên cần rút kinh nghiệm. Đối với người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định tại Điều 70; Điều 71 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Riêng bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do trong quá trình giải quyết vụ án là chưa chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho bà T được ly hôn với ông K. Về con chung, tài sản chung và nợ chung thì bà T không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Về án phí sơ thẩm: Đề nghị xem xét, giải quyết theo pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết:

Bà Nguyễn Thị T khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với bị đơn ông Nguyễn Văn K nên xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là "tranh chấp ly hôn". Ông K có địa chỉ cư trú tại xã B, huyện P, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh An Giang có thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án là đúng theo quy định theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[1.2] Về sự có mặt, vắng mặt của đương sự:

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tại phiên tòa, nguyên đơn có mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt lần thứ hai, không có lý do chính đáng nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án là đúng theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân:

Bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Văn K tự nguyện kết hôn nhân với nhau vào năm 1999 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện P, tỉnh An Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 09/TPHT, quyển số 01/2006 cấp ngày 16/02/2006 nên xét hôn nhân giữa ông bà là hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng.

Xét thấy vợ chồng có nghĩa vụ sống chung, yêu thương, quan tâm, chăm sóc, tôn trọng lẫn nhau. Tuy nhiên, theo bà T trình bày, khi còn chung sống, vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cãi vã nhau, từ đó tình cảm nhạt phai dần do ông K đã có người phụ nữ khác bên ngoài, tự ý bỏ gia đình đi ra sống riêng, không quan tâm đến vợ con. Vợ chồng ông bà đã tự ly thân với nhau khoảng 03 năm nay nên bà yêu cầu được ly hôn với ông K. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tạo điều kiện để vợ chồng bà T, ông K có cơ hội hòa giải, hàn gắn lại tình cảm với nhau, thế nhưng ông K vẫn vắng mặt, không đến hòa giải và không gửi văn bản ý kiến trình bày cho Tòa án. Cho thấy ông K đã tự từ bỏ quyền lợi của mình, không quan tâm tới gia đình, không muốn hàn gắn và duy trì mối quan hệ hôn nhân với bà T. Tại phiên tòa, mặc dù đã được Hội đồng xét xử động viên hàn gắn nhưng bà T vẫn cương quyết yêu cầu xin ly hôn với ông K, không muốn hàn gắn, duy trì mối quan hệ hôn nhân với ông K. Do đó, xét thấy hôn nhân giữa bà T và ông K đã thật sự lâm vào trình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T, cho bà T được ly hôn với ông K là phù hợp với quy định tại Điều 19, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P.

[2.2] Về con chung:

Bà T và ông K có hai con chung gồm: tên Nguyễn Ngọc L, sinh ngày 24/4/1999 và Nguyễn Chí Tâm, sinh ngày 30/10/2003. Hiện các con đã thành niên và có khả năng lao động được, bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[3] Về án phí: Do bà T là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên bà T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ vào Điều 19, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử : Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T.

- Về hôn nhân: Cho bà Nguyễn Thị T được ly hôn với ông Nguyễn Văn K.

Giấy chứng nhận kết hôn số 09/TPHT, quyển số 01/2006 do Uỷ ban nhân dân xã B, huyện P, tỉnh An Giang cấp ngày 16/02/2006 cho bà Nguyễn Thị T và Nguyễn Văn K không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.

- Về con chung: Không xem xét, giải quyết.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

- Về án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) mà bà T đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0003305 ngày 06 tháng 10 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P nên bà T không phải nộp thêm.

- Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Nguyễn Văn K có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

111
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 09/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:09/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về