Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con giữa chị Ph, anh V số 83/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 83/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON GIỮA CHỊ PH, ANH V

Ngày 23 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 165/2021/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 7 năm 2021 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 89/2021/QĐXX-ST ngày 01/9/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 51/2021/QĐST- HNGĐ ngày 16/9/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Ph, sinh năm 1989;

Đăng ký HKTT: Thôn Đ, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình;

Địa chỉ hiện ở: Số nhà 7x, tổ 1x, phường N, thành phố T, tỉnh Ninh Bình.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1986;

Địa chỉ: Thôn Đ, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình.

(Chị Ph có mặt, anh V vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình nguyên đơn chị Lê Thị Ph có yêu cầu khởi kiện và trình bày tại phiên tòa như sau:

Về hôn nhân: Chị Ph kết hôn với anh V trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào ngày 20/6/2008 tại Uỷ ban nhân dân xã Q, huyện Q. Sau khi kết hôn vợ chồng vào miền Nam sinh sống và làm ăn, đến tháng 10/2010 vợ chồng về gia đình anh V ở Thôn Đ, xã Q, huyện Q sinh sống. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được khoảng 8 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh V có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Chị đã khuyên bảo anh V nhiều lần nhưng anh không nghe. Mâu thuẫn vợ chồng ngày một trở nên trầm trọng nên vào tháng 7/2021 chị xin phép mẹ chồng đưa con chung Nguyễn Thanh T về nhà bố mẹ đẻ ở tỉnh Ninh Bình sinh sống, vợ chồng cũng ly thân từ đó cho đến nay không ai quan tâm hỏi han gì đến nhau. Chị Ph thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị xin được ly hôn anh V.

Về con chung: Chị Ph xác nhận chị và anh V có 02 con chung là Nguyễn Khánh L, sinh ngày 03/6/2010 và Nguyễn Thanh T, sinh ngày 24/01/2019. Hiện cháu Khánh Linh đang ở cùng anh V còn cháu Thanh T đang ở cùng chị. Ly hôn chị Ph đề nghị Tòa án giao con Nguyễn Thanh T cho chị nuôi dưỡng, anh V nuôi dưỡng cháu Nguyễn Khánh L, hai bên không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Chị và anh V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung. Hiện chị không có thai nghén gì.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị Ph trình bày vợ chồng không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Bị đơn anh Nguyễn Văn V vắng mặt nên không có ý kiến trình bày.

- Tại biên bản xác minh với bà Nguyễn Thị B (là mẹ đẻ anh V), địa chỉ ở Thôn Đ, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình, bà B trình bày: Việc kết hôn giữa chị Ph, anh V như chị Ph trình bày là đúng. Quá trình chung sống bà thấy vợ chồng không có mâu thuẫn lớn gì với nhau. Chị Ph đôi khi có lời nói không được chuẩn mực với anh V. Khoảng giữa tháng 7/2021 chị Ph tự ý thu dọn đồ đạc cá nhân và đưa cháu Nguyễn Thanh T về nhà bố mẹ đẻ chị ở bên tỉnh Ninh Bình sinh sống. Trong thời gian chị Ph bỏ đi anh V có gọi điện liên lạc nhưng chị Ph chặn máy không nghe. Nay chị Ph xin ly hôn, gia đình đề nghị Tòa án hòa giải cho vợ chồng được đoàn tụ cùng nuôi dạy con cái. Trường hợp chị Ph cương quyết ly hôn anh V gia đình bà đồng ý; Về con chung: Vợ chồng chị Ph, anh V có 02 con chung là Nguyễn Khánh L, sinh ngày 03/6/2010 và Nguyễn Thanh T, sinh ngày 24/01/2019 đúng như chị Ph trình bày. Trường hợp vợ chồng ly hôn gia đình bà đề nghị Tòa án giao con chung Nguyễn Khánh L cho anh V nuôi dưỡng, chị Ph nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thanh Tuân, hai bên không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau; Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng không có.

Bà Bện cũng trình bày thêm hiện nay anh V đi làm công nhân tại Công ty Sao Vàng tại huyện Q. Bà đã nhận được các văn bản tố tụng mà Tòa án gửi cho anh V và đã thông báo đầy đủ cho anh V biết việc chị Ph làm đơn xin ly hôn. Anh V có nói với bà chị Ph xin ly hôn anh không đồng ý, trường hợp chị Ph cương quyết ly hôn thì anh chấp nhận. Về con chung, tài sản chung và nợ chung anh V không đề cập gì.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Bị đơn không có mặt tại phiên tòa nên không phát biểu về việc chấp hành pháp luật của bị đơn tại phiên tòa. Về ý kiến giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; giải quyết theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa chị Lê Thị Ph và anh Nguyễn Văn V thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn anh anh Nguyễn Văn V có địa chỉ cư trú tại xã Q, huyện Q nên Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền, phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Anh Nguyễn Văn V có mặt tại địa phương nhưng không đến Tòa án làm việc. Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ: Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc thu thập chứng cứ, xác minh về tình trạng hôn nhân, điều kiện nuôi dưỡng con chung và địa chỉ của bị đơn. Vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng theo Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Xét thấy, quan hệ hôn nhân của chị Ph, anh V được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn hôn vào ngày 20/6/2008 tại Uỷ ban nhân dân xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình, đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 8 năm thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống. Mâu thuẫn trở nên trầm trọng vào tháng 7/2021 chị Ph và anh V đã sống ly thân, không ai quan tâm hỏi han đến nhau. Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, biết được việc chị Ph xin ly hôn nhưng anh V không đến Tòa án để trình bày ý kiến. Anh V không muốn ly hôn với chị Ph tuy nhiên anh đã không trực tiếp đến Tòa án trình bày quan điểm cũng như nhờ Tòa án hòa giải cho vợ chồng. Điều đó chứng tỏ anh V không có thiện chí hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Như vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở để xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Ph, anh V đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó cần xử cho chị Ph được ly hôn anh V là phù hợp với các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Chị Ph, anh V có 02 con chung là Nguyễn Khánh L, sinh ngày 03/6/2010 và Nguyễn Thanh T, sinh ngày 24/01/2019. Ly hôn, chị Ph có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thanh T, anh V nuôi dưỡng con chung Nguyễn Khánh L, hai bên không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Anh V không trình bày về việc nuôi dưỡng con chung. Tại biên bản lấy lời khai, cháu Khánh Linh trình bày nếu bố mẹ ly hôn thì cháu có nguyện vọng xin được ở với bố. Xét thấy, nguyện vọng nuôi con của chị Ph là chính đáng, hiện con chung Nguyễn Thanh T dưới 36 tháng tuổi, đang ở cùng chị, cháu được chăm sóc chu đáo, bản thân chị Ph có việc làm và thu nhập ổn định. Con chung Nguyễn Khánh L có nguyện vọng được ở với bố và cháu đang học tập ổn định tại xã Quỳnh Hồng nên để ổn định môi trường sống và việc học tập cho con chung cần giao con chung Thanh T cho chị Ph trực tiếp nuôi dưỡng, anh V nuôi dưỡng cháu Khánh Linh là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Ph, anh V trình bày vợ chồng không có nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Ph phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm, các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Lê Thị Ph được ly hôn anh Nguyễn Văn V.

2. Về con chung: Giao cho chị Lê Thị Ph trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thanh T, sinh ngày 24/01/2019; anh Nguyễn Văn V trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Khánh L, sinh ngày 03/6/2010 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi theo quy định của pháp luật. Hai bên không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Chị Ph, anh V có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Chị Ph, anh V có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu thay đổi về việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra để giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lê Thị Ph phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tại biên lai số 0004450 ngày 21/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Chị Ph đã nộp đủ tiền án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Lê Thị Ph có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 23 tháng 9 năm 2021). Anh Nguyễn Văn V có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ bản án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con giữa chị Ph, anh V số 83/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:83/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về