Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con giữa chị D, anh Đ số 08/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 08/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/01/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON GIỮA CHỊ D, ANH Đ

Ngày 26 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 184/2021/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2021 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 106/2021/QĐXX-ST ngày 20/12/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2022/QĐST-HNGĐ ngày 06/01/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đặng Thị D, sinh năm 1983.

Đăng ký HKTT: Thôn Th, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình;

Địa chỉ hiện ở: Thôn Đ, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình.

2. Bị đơn: Anh Phạm Văn Đ, sinh năm 1977.

Địa chỉ: Thôn Th, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình;

(Chị D có mặt, anh Đ vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Đặng Thị D đều như sau:

Về hôn nhân: Chị và anh Phạm Văn Đ có tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào ngày 30/4/2002 tại Uỷ ban nhân dân xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình. Quá trình chung sống, vợ chồng chung sống hạnh phúc được 14 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không còn chung quan điểm sống, không hiểu nhau ngoài ra chị còn chịu nhiều áp lực từ phía gia đình anh Đ. Mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng vào tháng 8/2021 chị đã cùng con gái về nhà bố mẹ đẻ chị ở thôn Đ, xã Q, huyện Q sinh sinh sống, vợ chồng cũng ly thân từ đó cho tới nay không ai quan tâm đến nhau. Nay thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được chị xin được ly hôn anh Phạm Văn Đ Về con chung: Chị D, anh Đ có 02 con chung là Phạm Văn H, sinh ngày 03/02/2003 và Phạm Diễm Nh, sinh ngày 25/5/2009. Ly hôn chị D xin được nuôi dưỡng con Diễm Nh và không yêu cầu anh Đ góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho chị. Đối với cháu Phạm Văn H đã đủ tuổi trưởng thành nên không đặt ra giải quyết, hiện tại chị không có thai nghén gì.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị trình bày vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Bị đơn anh Phạm Văn Đ vắng mặt nên không có ý kiến trình bày.

- Tại biên bản xác minh với ông Phạm Mạnh S (là bố đẻ anh Đ), địa chỉ: Thôn Th, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình, ông S trình bày: Việc kết hôn giữa chị Đặng Thị D và anh Phạm Văn Đ như chị D trình bày là đúng. Quá trình chung sống giữa vợ chồng ông không thấy vợ chồng có mâu thuẫn gì với nhau, khoảng tháng 8/2021 chị D đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở thôn Đ, xã Q sinh sống. Nay chị D xin ly hôn anh Đ, ông đề nghị Tòa án hòa giải cho vợ chồng được đoàn tụ, trường hợp hòa giải không thành đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật; Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Phạm Văn H, sinh ngày 03/02/2003 và Phạm Diễm Nh, sinh ngày 25/5/2009, trường hợp vợ chồng ly hôn ông đề nghị Tòa án xem xét quy định của pháp luật để giải quyết; Về tài sản chung, nợ chung: Ông không nắm rõ.

Ông S cũng trình bày thêm anh Phạm Văn Đ vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn Th, xã Q, huyện Q. Hiện nay anh Đ đang đi làm trên Hà Nội, địa chỉ cụ thể như thế nào ông không nắm rõ, anh Đ vẫn liên lạc về gia đình và khi gia đình có công việc anh vẫn trở về. Ông đã nhận các văn bản tố tụng mà Tòa án gửi cho anh Đ và đã thông báo đầy đủ cho anh Đ biết việc chị D làm đơn xin ly hôn anh tại Tòa án nhưng anh Đ không thể hiện quan điểm gì.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình có quan điểm cho rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Bị đơn không có mặt tại phiên tòa nên không phát biểu về việc chấp hành pháp luật của bị đơn tại phiên tòa. Về ý kiến giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa chị Đặng Thị D và anh Phạm Văn Đ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn anh Phạm Văn Đ có địa chỉ cư trú tại xã Quỳnh Hoàng, huyện Quỳnh Phụ nên Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền, phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn hiện không có mặt tại địa phương nhưng vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình, không cung cấp cho nguyên đơn biết địa chỉ hiện nay ở đâu là thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ. Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo về việc thu thập được tài liệu, chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc thu thập chứng cứ, xác minh về tình trạng hôn nhân, điều kiện nuôi dưỡng con chung và địa chỉ của bị đơn. Vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng theo Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Xét thấy, quan hệ hôn nhân của chị D, anh Đ được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 30/4/2002 tại Uỷ ban nhân dân xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình, đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống được một khoảng thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung. Mâu thuẫn trở nên trầm trọng vào tháng 8/2021 chị D đã đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở thôn Đ, xã Q, huyện Q sinh sống. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân cả chị D và anh Đ đều không quan tâm hỏi han gì đến nhau,quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, biết được việc chị D xin ly hôn nhưng anh Đ không trực tiếp đến Tòa án trình bày quan điểm hay thông qua gia đình để thể ý kiến của mình. Điều đó chứng tỏ anh Đ không có thiện chí hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Như vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở để xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần xử cho chị D được ly hôn anh Đ là phù hợp với Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Chị D, anh Đ có 02 con chung là Phạm Văn H, sinh ngày 03/02/2003 và Phạm Diễm Nh, sinh ngày 25/5/2009. Ly hôn, chị D có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị không yêu cầu anh Đ phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho chị. Anh Đ dù biết được việc chị D xin ly hôn nhưng không thể hiện quan điểm hay ý kiến của mình về việc nuôi dưỡng con chung, ngoài ra cháu Phạm Diễm Nh có nguyện vọng xin được ở với mẹ. Xét thấy, nguyện vọng nuôi con của chị D là chính đáng, hiện con chung đang ở cùng chị được chăm sóc chu đáo, bản thân chị D có việc làm và thu nhập nên để ổn định môi trường sống cho con chung cần giao con chung Phạm Diễm Nh cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Đối với con chung Phạm Văn H đã đủ tuổi trưởng thành nên không đặt ra giải quyết.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị D trình bày vợ chồng tự thỏa thuận, anh Đ không có ý kiến trình bày nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Đặng Thị D phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm, các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147; điểm b khoản 2, Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Đặng Thị D ly hôn anh Phạm Văn Đ.

2. Về con chung: Giao cho chị Đặng Thị D trực tiếp nuôi dưỡng con chung Phạm Diễm Nh, sinh ngày 25/5/2009 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi theo quy định của pháp luật. Chị D không yêu cầu anh Đ phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung, anh Phạm Văn Đ có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Chị D, anh Đ có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu thay đổi về việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Đối với con chung Phạm Văn H đã đủ tuổi trưởng thành nên không đặt ra giải quyết.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Đặng Thị D phải nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) tại biên lai số 0004472 ngày 05/10/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Chị D đã nộp đủ tiền án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Đặng Thị D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Phạm Văn Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ bản án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con giữa chị D, anh Đ số 08/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về