Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 375/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẨM LỆ, TP. ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 375/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 21 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Cẩm Lệ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 201/2022/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 107/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 112/2022/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Thùy L, sinh năm: 1986 Địa chỉ: Số 53 Ng, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng. Có mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Ông Phạm Đình Tr, sinh năm: 1986.

Địa chỉ: Số 53 Ng, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 13 tháng 5 năm 2022 và trong quá trình tố tụng nguyên đơn Bà Huỳnh Thị Thùy L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà kết hôn với Ông Phạm Đình Tr vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, sau khi kết hôn vợ chồng sống tại Số 53 Ng, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng.

Trong quá trình chung sống, thời gian đầu hạnh phúc nhưng sau đó đến năm 2010 phát sinh mâu thuẫn, đỉnh điểm nhất là vào ngày 13 tháng 5 năm 2022, nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống do ông Tr thường xuyên rượu chè, bê bét về đánh đập vợ con, ngoài ra còn chơi số đề, đập phá đồ đạc trong nhà. Sự việc đã diễn ra rất nhiều lần nhưng bà cố gắng chịu đựng đến hôm nay. Nay bà xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không hạnh phúc, bà không thể tiếp tục chung sống cùng chồng và bà đã xin nhà chồng ra ở riêng, thực tế vợ chồng đã ly thân. Vì vậy, bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn ông Tr.

Về con chung: Bà Huỳnh Thị Thùy L xác nhận vợ chồng có 02 con chung tên Phạm Đình S, sinh ngày: 03/6/2009 và con Phạm Thảo P, sinh ngày: 21/7/2011. Trong đơn xin ly hôn bà L có nguyện vọng giao 02 con cho ông Tr nuôi dưỡng, bà cấp dưỡng nuôi 02 con mỗi tháng 3 triệu đồng, nhưng tại phiên hòa giải và tại phiên tòa bà L thay đổi: bà xin được nuôi con Phạm Thảo P, ông Tr nuôi con Phạm Đình S, không ai cấp dưỡng cho ai. Vì hiện nay trên thực tế cũng đã như vậy.

Về tài sản chung: Bà Huỳnh Thị Thùy L xác nhận không có

Về nợ chung: Bà Huỳnh Thị Thùy L xác nhận không có * Tại lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn Ông Phạm Đình Tr trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Thống nhất với lời trình bày của bà L về thời gian và điều kiện kết hôn là đúng. Trong quá trình chung sống vợ chồng có mâu thuẫn, mặc dù ông có lỗi trong tình cảm vợ chồng nhưng mâu thuẫn chưa trầm trọng, ông hứa sẽ thay đổi bản thân để vợ chồng được đoàn tụ, ông không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Ông Phạm Đình Tr xác nhận vợ chồng có 02 con chung như bà L trình bày là đúng. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn, ông có nguyện vọng nuôi con Phạm Đình S, sinh ngày: 03/6/2009, bà L nuôi con Phạm Thảo P, sinh ngày: 21/7/2011, không ai cấp dưỡng cho ai.

Về quan hệ tài sản chung: Ông Phạm Đình Tr xác nhận không có. Về nợ chung: Ông Phạm Đình Tr xác nhận không có * Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:

- Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến thời điểm trước khi mở phiên tòa, Thẩm phán, các đương sự tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử thực hiện đầy đủ, đúng các thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án:

+ Đề nghị HĐXX căn cứ các điều 56, 58 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Huỳnh Thị Thùy L, xử cho Bà Huỳnh Thị Thùy L được ly hôn Ông Phạm Đình Tr.

+ Về con chung: Giao con Phạm Thảo P cho Bà Huỳnh Thị Thùy L trực tiếp nuôi dưỡng, Giao con Phạm Đình S cho Ông Phạm Đình Tr trực tiếp nuôi dưỡng, không ai cấp dưỡng cho ai.

Bà L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về thủ tục tố tụng: Bị đơn Ông Phạm Đình Tr đã được Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ 2 nhưng vắng mặt.

Vì vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt Ông Phạm Đình Tr

[2].Về Nội dung tranh chấp:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Quan hệ hôn nhân giữa Bà Huỳnh Thị Thùy L và Ông Phạm Đình Tr được xác lập trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện vào năm năm 2008, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng (Theo Giấy chứng nhận kết hôn số 140, quyển số 01 ngày 30 tháng 12 năm 2008). Vì vậy, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm Bà Huỳnh Thị Thùy L khai rằng: Bà không còn tình cảm, không còn thương yêu gì Ông Phạm Đình Tr vì trong cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, nguyên nhân là do tính tình không hợp, ông Tr thường xuyên rượu chè, bê bét về đánh đập vợ con, ngoài ra còn chơi số đề, đập phá đồ đạc trong nhà. Sự việc đã diễn ra rất nhiều lần nhưng bà cố gắng chịu đựng đến hôm nay. Vì vậy, bà tha thiết xin được ly hôn.

Đối với bị đơn Ông Phạm Đình Tr xác định vợ chồng sống có mâu thuẫn, nhưng ông sẽ thay đổi, mong muốn gia đình đoàn tụ, ông không đồng ý ly hôn.

Căn cứ biên bản xác minh vào ngày 25 tháng 8 năm 2022 đã được chính quyền địa P xác nhận có nội dung: Cuộc sống chung giữa bà L và ông Tr có mâu thuẫn hay không, địa P không nắm rõ. Tuy nhiên trong thời gian khoảng 2,3 tháng nay bà L dọn ra khỏi nhà và thuê phòng trọ ở riêng để làm nghề Spa, có dắt theo con gái ở cùng.

Hội đồng xét xử xét thấy: Vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau cùng nhau chia xẻ thực hiện các công việc trong gia đình nhưng giữa bà L và ông Tr không đạt được mục đích này.

Mâu thuẫn giữa bà L và ông Tr đã thật sự trầm trọng, cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng hàn gắn không còn và thực tế vợ chồng đã không chung sống cùng nhau.

Đối với ông Tr có ý kiến không muốn ly hôn nhưng ông không có thiện chí, không có động thái nào để thể hiện muốn hàn gắn gia đình, đã nhiều lần tòa án hòa giải để vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng bà L không đồng ý.

Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 luật HNGĐ năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Bà Huỳnh Thị Thùy L, xử cho Bà Huỳnh Thị Thùy L được ly hôn Ông Phạm Đình Tr là phù hợp.

[2.2] Về quan hệ con chung: Bà Huỳnh Thị Thùy L và Ông Phạm Đình Tr xác nhận vợ chồng có 02 con chung tên Phạm Đình S, sinh ngày: 03/6/2009 và con Phạm Thảo P, sinh ngày: 21/7/2011.

Ly hôn, Bà Huỳnh Thị Thùy L có nguyện vọng được trực tiếp nhận nuôi dưỡng con Phạm Thảo P, giao con Phạm Đình S cho ông Tr nuôi dưỡng. Không ai cấp dưỡng cho ai.

Ông Phạm Đình Tr đồng ý về việc nuôi con như bà L trình bày.

Xét yêu cầu được nuôi con của Bà Huỳnh Thị Thùy L thì thấy:

Hiện nay cháu Phạm Thảo P đang sống cùng mẹ, và nguyện vọng của con cũng muốn sống cùng mẹ sau khi ba mẹ ly hôn, mẹ có thu nhập ổn định để nuôi con, để không làm xáo trộn cuộc sống của con, HĐXX căn cứ vào các điều 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 xử giao cháu Phạm Thảo P cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng.

Hiện nay cháu Phạm Đình S đang sống cùng ba, và nguyện vọng của con cũng muốn sống cùng ba sau khi ba mẹ ly hôn, ba có thu nhập ổn định để nuôi con, để không làm xáo trộn cuộc sống của con, HĐXX căn cứ vào các điều 58, 81, 82, 83, 84 Luật HNGĐ năm 2014 xử giao cháu Phạm Đình S cho ông Tr trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: bà L và ông Tr không yêu cầu cấp dưỡng nên HĐXX không đề cập đến.

[2.3] Về tài sản chung: bà L và ông Tr xác nhận không có nên HĐXX không đề cập đến.

[2.4] Về nợ chung: bà L và ông Tr xác nhận không có nên HĐXX không đề cập đến.

[2.5] Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: bà L phải chịu là 300.000đ.

[2.6] Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Huỳnh Thị Thùy L, xử cho bà Bà Huỳnh Thị Thùy L được ly hôn Ông Phạm Đình Tr và giao Phạm Thảo P cho bà L nuôi dưỡng, giao con Phạm Đình S cho ông Tr nuôi dưỡng, không ai cấp dưỡng cho ai.

HĐXX xét thấy đề nghị của Viện Kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng tại phiên tòa phù hợp với nhận định của HĐXX nên HĐXX chấp nhận đề nghị của Viện Kiểm sát.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; các điều 147, 227, 228, 266, 267, 269, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Huỳnh Thị Thùy L đối với Ông Phạm Đình Tr về việc: “Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung”.

1. Về quan hệ hôn nhân: cho Bà Huỳnh Thị Thùy L được ly hôn và Ông Phạm Đình Tr.

2. Về quan hệ con chung: Giao con chung Phạm Thảo P, sinh ngày:

21/7/2011 cho Bà Huỳnh Thị Thùy L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên (đủ 18 tuổi).

Giao con chung Phạm Đình S, sinh ngày: 03/6/2009 cho Ông Phạm Đình Tr trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên (đủ 18 tuổi).

Không bên nào cấp dưỡng nuôi con cho bên nào.

Bên không nuôi con được quyền đi lại, thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Khi cần thiết vì lợi ích con chung các bên có quyền làm đơn xin thay đổi nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Bà Huỳnh Thị Thùy L và Ông Phạm Đình Tr xác nhận không có nên HĐXX không đề cập đến.

4.Về nợ chung: Bà Huỳnh Thị Thùy L và Ông Phạm Đình Tr xác nhận không có nên HĐXX không đề cập đến.

5. Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm Bà Huỳnh Thị Thùy L phải chịu là 300.000đ nhưng được trừ 300.000đồng tiền tạm ứng án phí Bà Huỳnh Thị Thùy L đã nộp tại biên lai thu số 0001934 ngày 07.6.2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Như vậy, Bà Huỳnh Thị Thùy L đã nộp đủ án phí.

6. Báo cho Huỳnh Thị Thùy L biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm hôm nay. Riêng Ông Phạm Đình Tr vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Toà án niêm yết bản án.

Tr hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 375/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:375/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cẩm Lệ - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về