Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 255/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 255/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 16 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 634/2022/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 7 năm 2022 về việc tranh chấp“Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 634/2022/QĐ-ST ngày 16 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 456/QĐST-DS ngày 31 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Ngô Tuyết N, sinh năm 1977; địa chỉ: số, ấp L, thị trấn C, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang; (có đơn xin vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu T, sinh năm 1978; địa chỉ: số 155/3, ấp L, thị trấn C, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ đơn khởi kiện đề ngày 07/7/2022, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Ngô Tuyết N trình bày: trên cơ sở quen biết, sau khoảng thời gian tìm hiểu, chị với anh Nguyễn Hữu T tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn theo quy định tại Ủy ban nhân dân thị trấn C, huyện Chợ Mới vào ngày 07/10/2002, vợ chồng sống hạnh phúc đến đầu cuối 2019 thì phát sinh nhiều mâu thuẩn trong cuộc sống hàng ngày, lối sống, tính cách trái ngược không hòa hợp, không tôn trọng nhau; mâu thuẩn càng trầm trọng, không thể hàn gắn, sống ly thân từ thời điểm đó cho đến nay, cả hai không còn liên lạc với nhau. Nay thấy tình cảm không còn, hôn nhân không hạnh phúc nên chị xin ly hôn với anh Nguyễn Hữu T.

- Về con chung: có 03 con chung Nguyễn Trí T1, sinh năm 1995 (đã thành niên), Nguyễn Trí T2, sinh năm 1997 (đã chết), Nguyễn Trí D, sinh ngày 20/9/2005, khi vợ chồng ly thân và thời điểm hiện tại đang sống cùng chị N. Sau khi ly hôn, chị có nguyện vọng tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung;

kng yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết;

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp: Bản sao Giấy khai sinh con chung; Tờ tự khai, đơn khởi kiện ngày 07/7/2022; giấy chứng nhận kết hôn số 188, quyển số 01/2002.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải để động viên vợ chồng giải quyết các bất đồng quan điểm, hàn gắn để cùng với nhau xây dựng gia đình nhưng anh T đều vắng mặt, thể hiện việc anh T không có thiện chí hàn gắn tình cảm với chị N. Vì vậy, Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, chị N có đơn xin vắng mặt, trình bày vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với anh T, nguyện vọng được nuôi dưỡng, chăm sóc con chung; anh T vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến. Các bên không thống nhất được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và giải quyết vụ án như sau:

- Về tố tụng:

Tòa án thực hiện các thủ tục tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn Nguyễn Hữu T tuy được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, vẫn tiến hành xét xử vụ án.

- Ý kiến giải quyết vụ án:

+ Về hôn nhân:

Chị N, anh T quen biết, tìm hiểu, tiến đến hôn nhân vào năm 2002, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn C vào ngày 07/10/2002, là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận, bảo vệ. Vợ chồng sống hạnh phúc đến cuối năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, do không cùng quan điểm nên thường xuyên cự cãi và ly thân. Nay, chị N yêu cầu ly hôn với anh T với lý do vợ chồng mâu thuẫn từ những bất đồng trong cuộc sống hàng ngày, không tìm được tiếng nói chung. Chị N gửi đơn khởi kiện nhưng anh T không có ý kiến phản hồi, không tạo điền kiện để hàn gắn hạnh phúc vợ chồng, chị N xác định không còn tình cảm và kiên quyết ly hôn nên mục đích hôn nhân không đạt; căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị N đối với anh T là phù hợp.

- Về con chung: có 03 con chung Nguyễn Trí T1, sinh năm 1995 (đã thành niên), Nguyễn Trí T2, sinh năm 1997 (đã chết), Nguyễn Trí D, sinh ngày 20/9/2005, thời điểm khi vợ chồng ly thân đến nay, cháu sống với chị N. Sau khi ly hôn, chị N có nguyện vọng tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung;

kng yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con. Trên cơ sở đánh giá trên nhiều phương diện, mặt tích cực, việc giao con cho bên vợ hay chồng chăm sóc nuôi dưỡng cần xem xét đến điều kiện phát triển và nguyện vọng của con chung. Từ khi ly thân, cháu D sống với chị N phát triển bình thường về thể chất, tinh thần, cháu có văn bản trình bày ý kiến có nguyện vọng sống cùng mẹ, chỉ vài tháng nữa cháu cũng tròn 18 tuổi; để đảm bảo cuộc sống cho cháu nên tiếp tục giao cháu D cho chị N tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng; chị N không yêu cầu cấp dưỡng, không đề cập.

- Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu, Tòa án không đề cập giải quyết;

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:

- Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Ngô Tuyết N đối với anh Nguyễn Hữu T.

- Chị Ngô Tuyết N được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Nguyễn Trí D, sinh năm 2005; anh Nguyễn Hữu T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đương sự. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ tranh chấp:

Chị N khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh T, vợ chồng có 01 con chưa thành niên, được xác định là tranh chấp“Ly hôn, nuôi con chung” quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Về thẩm quyền:

Bị đơn Nguyễn Hữu T có nơi cư trú tại địa bàn huyện C, tỉnh An Giang. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án huyện C, tỉnh An Giang theo quy định tại các Điều 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.3] Về sự vắng mặt của đương sự:

Tuy được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng anh T vắng mặt không rõ lý do. Vì vậy, căn cứ Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành việc xét xử.

[2] Về quan hệ hôn nhân: [2.1] Về tính hợp pháp:

Chị N, anh T quen biết, tiến đến hôn nhân trên cơ sở tình yêu tự nguyện, tự tìm hiểu, không ai lừa dối hay ép buộc, cả hai có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật thuộc trường hợp hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận, bảo vệ.

[2.2] Về tình trạng hôn nhân:

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến cuối năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên xảy ra cự cãi, bất đồng quan điểm trong từng lời nói, mâu thuẫn do không cùng quan điểm trong cuộc sống hàng ngày, không tìm được tiếng nói chung và ly thân cho đến nay chị N trình bày chị đi làm xa, không còn liên lạc với anh T, vợ chồng không còn quan tâm, chia sẽ với nhau; điều đó, thể hiện mâu thuẩn vợ chồng trầm trọng. Thời điểm chị N khởi kiện xin ly hôn nhưng anh T không có ý kiến phản hồi, không tạo điền kiện để hàn gắn hạnh phúc vợ chồng, chị N xác định không còn tình cảm với anh T, kiên quyết ly hôn nên mục đích hôn nhân không đạt, đời sống chung không thể kéo dài.

Với những căn cứ trên, có cơ sở xác định cuộc sống hôn nhân giữa chị N, anh T phát sinh mâu thuẩn trầm trọng, không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên chấp nhận yêu cầu của chị N ly hôn với anh T theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: có 03 con chung Nguyễn Trí T1, sinh năm 1995 (đã thành niên), Nguyễn Trí T2, sinh năm 1997 (đã chết), Nguyễn Trí D, sinh ngày 20/9/2005, khi vợ chồng ly thân đến nay, cháu sống với chị N. Sau khi ly hôn, chị N có nguyện vọng tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung, chỉ còn một thời gian ngắn nữa thì cháu D đã thành niên, không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con. Đánh giá việc giao con cho vợ hay chồng chăm sóc, nuôi dưỡng cần xem xét đến nhiều yếu tố, điều kiện phát triển về mọi mặt. Từ khi vợ chồng ly thân, cháu D sống với chị N phát triển bình thường về thể chất, tinh thần, nguyện vọng của cháu được sống cùng với mẹ; để đảm bảo cuộc sống cho cháu nên tiếp tục giao cháu D cho chị N tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng; chị N không yêu cầu cấp dưỡng, không đề cập.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: kng yêu cầu, không đề cập;

[5] Về án phí: chị N phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Anh T không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

[6] Quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ được Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

các Điều 144, 147, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326 2016 BTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của y ban thư ng vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

1.Về hôn nhân:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Tuyết N.

Cho chị Ngô Tuyết N được ly hôn với anh Nguyễn Hữu T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 188/2002, quyển số 01, do Ủy ban nhân dân thị trấn C, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, cấp ngày 07 tháng 10 năm 2002 cho chị Ngô Tuyết N với anh Nguyễn Hữu T, không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung:

Giao cháu Nguyễn Trí D, sinh ngày 20/9/2005 cho chị Ngô Tuyết N tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành, có khả năng lao động; anh Nguyễn Hữu T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị Ngô Tuyết N cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở anh Nguyễn Hữu T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

3. Về tài sản chung, nợ chung: không đề cập giải quyết.

4. Về án phí:

Chị Ngô Tuyết N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, khấu trừ số tiền tạm ứng đã nộp theo biên lai thu tiền số 0004851 ngày 07 tháng 7 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh An Giang; chị N đã nộp xong.

Anh Nguyễn Hữu T không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Chị Ngô Tuyết N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Hữu T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể tự ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết bản án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

113
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 255/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:255/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về