Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 72/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN X, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 72/2023/DS-ST NGÀY 08/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 08 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 266/2022/TLST-DS, ngày 06 tháng 12 năm 2022 về việc “Tranh chấp Hợp đồng tín dụng”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2023/QĐXXST-DS, ngày 10/7/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 48/2023/QĐST-DS, ngày 10/8/2023, giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Q.

Địa chỉ: Tầng 0, Tòa nhà S–P, phường B, quận N, thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện theo pháp luật: Ông Hàn Ngọc V – Chức vụ: Tổng Giám đốc.

Đại diện theo ủy quyền: Bà Trần Thị Thu H – Chức vụ: Giám đốc Trung tâm Quản lý nợ Ngân hàng bán lẻ (Văn bản ủy quyền số 27869.20 ký ngày 04/01/2021).

Bà Trần Thị Thu H ủy quyền tham gia tố tụng cho các ông/bà Trần Quốc T, Nguyễn Hữu G và Nguyễn Hữu N – Chức vụ: Cán bộ Ngân hàng Thương mại Cổ phần Q (Văn bản ủy quyền số 122699.23, ngày 17/8/2023. Văn bản này thay thế/hủy bỏ Văn bản ủy quyền số 079502.22, ngày 07/9/2022).

Địa chỉ: Tầng 0, Tòa nhà P, số 00 UVK, phường 00, quận B, thành phố Hồ Chí Minh.

(Các ông/bà V, H, T và N: Vắng mặt; ông G: Có mặt).

2/ Bị đơn:

- Bà Lê Thị Huyền T, sinh năm 1991 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Tổ 0, ấp T, xã P, huyện X, tỉnh Bà Rịa–Vũng Tàu.

- Ông Đỗ Văn T1, sinh năm 1993 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn TP (nay là thôn TT), xã D1, huyện D, tỉnh Quảng Nam.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình tố tụng nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần Q có người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Ngày 28/3/2019 Ngân hàng Thương mại Cổ phần Q (sau đây viết tắt là: Ngân hàng) - Chi nhánh Đ và ông Đỗ Văn T1 cùng bà Lê Thị Huyền T ký kết Hợp đồng tín dụng số 2019.0340.HĐTD.6... để vay số tiền 531.000.000 đồng; mục đích vay: Thanh toán mua 01 xe Ô tô nhãn hiệu MAZDA, số loại BT50; mục đích sử dụng:

Đi lại cá nhân. Lãi suất vay tại thời điểm giải ngân 9%/năm. Lãi suất này là lãi suất ưu đãi (so với lãi suất thông thường là: Lãi suất cơ sở theo sản phẩm trong kỳ + biên độ 3,9%/năm) và chỉ được áp dụng trong 12 tháng đầu tiên kể từ ngày giải ngân khoản vay. Hết thời hạn ưu đãi nói trên, lãi suất sẽ được điều chỉnh lại 03 tháng một lần bằng lãi suất cơ sở theo sản phẩm cộng biên độ 3,9%/năm; thời hạn vay: 84 tháng, từ ngày 29/3/2019 đến ngày 28/3/2026; hoàn trả khoản vay gốc hằng tháng vào ngày 25; kỳ trả nợ đầu tiên ngày 25/4/2019; số tiền gốc trả hàng tháng: 6.322.000 đồng; số còn lại trả vào cuối kỳ; hoàn trả lãi hàng tháng vào ngày 25; trả phí: Theo quy định của Ngân hàng từng thời kỳ; mức lãi suất chậm trả của các khoản tiền lãi (lãi phạt) bằng 10%/năm; lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn.

Cùng ngày, Ngân hàng đã giải ngân cho ông T1 và bà T theo đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 2019.0340.KUNN.6… với số tiền 531.000.000 đồng theo đúng yêu cầu của khách hàng và phù hợp với Hợp đồng tín dụng. Số tiền trên được chuyển vào tài khoản số 613704060198… của Công ty TNHH MTV TH - Bình Dương.

Để bảo đảm cho khoản vay của Hợp đồng tín dụng, ông T1 và bà T đã ký Hợp đồng thế chấp phương tiện vận tải số 2019.0340.HĐTC.6…, ngày 28/3/2019 với Ngân hàng. Tài sản thế chấp là 01 xe Ô tô, nhãn hiệu MAZDA, số loại BT50, số máy P4AT27403.., số khung 4DD3KW9346.., loại xe Tải pickup cabin kép, màu sơn Trắng, biển số 72C-144… theo giấy Chứng nhận đăng ký xe Ô tô số 0435.. do Phòng Cảnh sát giao thông, Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, cấp ngày 27/3/2019, tên chủ xe là bà Lê Thị Huyền T.

Quá trình thực hiện Hợp đồng tín dụng, ông T1 và bà T đã thanh toán cho Ngân hàng được số tiền 279.413.735 đồng (trong đó: gốc là 170.694.000 đồng, lãi là 108.719.735 đồng). Kể từ ngày 26/7/2021 cho đến ngày 08/9/2023 ông T1 và bà T không trả tiền nợ gốc và lãi theo đúng cam kết trong Hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ nên đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ.

Mặc dù, Ngân hàng đã nhắc nhở về việc trả nợ và gửi thông báo về việc khởi kiện nhưng ông T1 và bà T vẫn cố tình trì hoãn, không thanh toán hết khoản nợ vay cho Ngân hàng.

Vì vậy, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về Hợp đồng tín dụng: Buộc ông T1 và bà T phải có nghĩa vụ trả ngay cho Ngân hàng tổng số tiền tạm tính đến ngày 08/9/2023 là 504.010.174 đồng (trong đó: tiền nợ gốc là 360.306.000 đồng, tiền lãi trong hạn là 52.481.650 đồng, tiền lãi quá hạn là 86.149.950 đồng, lãi phạt là 5.072.574 đồng).

Đề nghị tiếp tục tính lãi phát sinh (bao gồm: lãi, lãi quá hạn) trên số tiền nợ gốc theo Hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ đã ký giữa Ngân hàng với ông T1 và bà T, kể từ ngày 09/9/2023 cho đến khi ông T1 và bà T thanh toán xong toàn bộ khoản nợ.

- Về Hợp đồng thế chấp phương tiện vận tải: Tài sản thế chấp bảo đảm cho khoản vay là 01 xe Ô tô, nhãn hiệu MAZDA, số loại BT50, số máy P4AT27403.., số khung 4DD3KW9346.., loại xe Tải pickup cabin kép, màu sơn Trắng, biển số 72C-144… theo giấy Chứng nhận đăng ký xe Ô tô số 0435.. do Phòng Cảnh sát giao thông, Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, cấp ngày 27/3/2019, tên chủ xe là bà Lê Thị Huyền T. Ngân hàng không yêu cầu Tòa án xử lý đối với tài sản thế chấp này trong vụ án.

Tại bản tự khai và trong quá trình tố tụng bị đơn bà Lê Thị Huyền T trình bày: Bà T đồng ý với lời trình bày của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn về việc vào ngày 28/3/2019 bà và ông Đỗ Văn T1 có ký kết Hợp đồng tín dụng (mua Ô tô tiêu dùng) số 2019.0340.HĐTD.6..; Đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 2019.0340.KUNN.6.. và Hợp đồng thế chấp phương tiện vận tải số 2019.0340.HĐTC.6.. với Ngân hàng. Quá trình thực hiện Hợp đồng tín dụng bà và ông T1 đã thanh toán cho Ngân hàng được số tiền 279.413.735 đồng (trong đó: gốc là 170.694.000 đồng, lãi là 108.719.735 đồng). Kể từ ngày 26/7/2021 thì bà và ông T1 không trả tiền nợ gốc và lãi theo đúng cam kết trong Hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ. Hiện tại, bà và ông T1 không còn chung sống cùng nhau, không liên lạc với nhau và xe Ô tô thì ông T1 là người trực tiếp quản lý, sử dụng từ khi mua vì bản thân bà không biết lái xe. Nay, Ngân hàng yêu cầu bà và ông T1 trả tiền nợ gốc và lãi theo đúng cam kết trong Hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ thì bà đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật vì cho đến nay bà không có khả năng thanh toán số tiền đang nợ Ngân hàng.

Đối với bị đơn là ông Đỗ Văn T1: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông T1 vẫn không đến Tòa án tham gia giải quyết. Tòa án cũng không nhận được văn bản ghi ý kiến hay bản tự khai của ông T1.

Tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp: Người đại diện của nguyên đơn giao nộp kèm theo đơn khởi kiện là: Điều lệ Ngân hàng Thương mại Cổ phần Q (bản có dấu của Ngân hàng); Giấy chứng nhận đăng ký Doanh nghiệp Công ty Cổ phần (bản sao); Giấy ủy quyền số 27869.20, ngày 04/01/2021 (bản chính); Giấy ủy quyền số 079502.22, ngày 07/9/2022 (bản chính); Giấy ủy quyền số 122699.23, ngày 17/8/2023 (bản chính); Đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 2019.0340.KUNN.6.., ngày 28/3/2019 (bản sao); Hợp đồng tín dụng (mua Ô tô tiêu dùng) số 2019.0340.HĐTD.6.., ngày 28/3/2019 (bản sao); Hợp đồng thế chấp phương tiện vận tải số 2019.0340.HĐTC.6.., ngày 28/3/2019 (bản sao); Giấy chứng nhận đăng ký xe Ô tô số 0435.. do Phòng Cảnh sát giao thông, Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cấp ngày 27/3/2019 (bản sao); Căn cước công dân, sổ hộ khẩu gia đình, giấy chứng nhận kết hôn của ông T1 và bà T (bản chụp); Thông báo: Khởi kiện yêu cầu trả nợ; Thu hồi toàn bộ dư nợ khoản vay và chuyển nợ quá hạn; Yêu cầu trả nợ, chủ động bàn giao tài sản; Xử lý tài sản bảo đảm (bản chính).

Tại phiên tòa: Ông Đỗ Văn T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do; Bà Lê Thị Huyền T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên lời trình bày, không có yêu cầu phản tố và không bổ sung gì thêm; Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Nguyễn Hữu G vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không bổ sung gì thêm. Các đương sự không có thỏa thuận gì về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về áp dụng pháp luật tố tụng:

[1] Tại đơn khởi kiện, Ngân hàng yêu cầu Tòa án tuyên buộc ông Đỗ Văn T1 và bà Lê Thị Huyền T có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng toàn bộ số tiền theo Hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ và đề nghị tiếp tục tính lãi phát sinh trên số tiền nợ gốc như đã ký kết tại Hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ giữa Ngân hàng với ông T1 và bà T cho đến khi ông T1 và bà T thanh toán xong toàn bộ khoản nợ, được xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp về Hợp đồng tín dụng” quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; ông T1 và bà T cư trú ở nhiều nơi khác nhau do đó nguyên đơn yêu cầu Tòa án nơi bà T đang cư trú là huyện X, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh Bà Rịa–Vũng Tàu theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm h khoản 1 Điều 40 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Sự vắng mặt của đương sự: Ông Đỗ Văn T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, bà Lê Thị Huyền T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, vẫn tiến hành xét xử.

[3] Sự vắng mặt của Kiểm sát viên: Viện kiểm sát nhân dân huyện X, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu có Công văn số 64/CV-VKS, ngày 13/7/2023 thông báo về việc không cử Kiểm sát viên tham gia phiên tòa vì lý do công tác nên căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 232 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.

[4] Về tài liệu, chứng cứ: Căn cứ theo lời trình bày của người đại diện cho nguyên đơn trong quá trình tố tụng và tài liệu, chứng cứ đã nộp tại Tòa án thì toàn bộ nội dung trong Hợp đồng tín dụng số 2019.0340.HĐTD.6..; Đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 2019.0340.KUNN.6.. do các bên có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự ký kết trên cơ sở tự nguyện, mục đích và nội dung thỏa thuận trong hợp đồng là phù hợp với Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng và đúng theo quy định của Luật Các tổ chức Tín dụng năm 2010. Bị đơn là ông Đỗ Văn T1 đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng , nhưng vắng mặt, không có ý kiến gì đối với yêu cầu của nguyên đơn và tài liệu, chứng cứ kèm theo, không có yêu cầu phản tố. Toàn bộ tài liệu, chứng cứ nêu trên đã được Tòa án thông báo cho ông T1 tại Thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo quy định tại các Điều 208, 209 và khoản 3 Điều 210 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Vì vậy, bị đơn là ông T1 phải chịu hậu quả pháp lý của việc không trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 196 và Điều 199 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Riêng bị đơn là bà Lê Thị Huyền T thì toàn bộ tài liệu, chứng cứ nêu trên đã được Tòa án công khai tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 31/5/2023 theo đúng quy định tại Điều 210 của Bộ luật Tố tụng Dân sự đã được bà T thừa nhận, không phản đối và không có yêu cầu phản tố. Do đó, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, lời trình bày của người đại diện cho Ngân hàng và lời trình bày của bà T để giải quyết vụ án.

Về áp dụng pháp luật nội dung:

[5] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và lời trình bày của bị đơn bà Lê Thị Huyền T, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[5.1] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Căn cứ Hợp đồng tín dụng số 2019.0340.HĐTD.6.., ngày 28/3/2019 ký kết giữa Ngân hàng với ông T1 và bà T được xác lập theo đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 2019.0340.KUNN.6…, ngày 28/3/2019 của ông T1 và bà T. Ngân hàng đã giải ngân đối với Hợp đồng tín dụng số tiền là 531.000.000 đồng cho ông T1 và bà T. Như vậy, nội dung và hình thức của hợp đồng đã thể hiện ý chí tự nguyện thỏa thuận giữa các bên, không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội và phù hợp với quy định pháp luật nên đây là hợp đồng hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên theo quy định tại Điều 117 và Điều 119 của Bộ luật Dân sự.

[5.2] Về lời trình bày của bị đơn bà Lê Thị Huyền T: Bà T đồng ý với tất cả yêu cầu của Ngân hàng do người đại diện theo ủy quyền trình bày nhưng hiện nay bà T xác định không có khả năng thanh toán số tiền đang nợ Ngân hàng nên đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Xét, lời trình bày của bà T là hoàn toàn tự nguyện nên ghi nhận.

[6] Quá trình thực hiện Hợp đồng tín dụng ông T1 và bà T đã thanh toán được cho Ngân hàng số tiền 279.413.735 đồng (trong đó: gốc là 170.694.000 đồng, lãi là 108.719.735 đồng). Kể từ ngày 26/7/2021 cho đến ngày 08/9/2023, ông T1 và bà T không trả tiền nợ gốc và lãi như đã thỏa thuận và đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng đã chuyển toàn bộ số nợ vay sang nợ quá hạn. Ô ng T1 và bà T phải chịu số lãi suất quá hạn là 150% lãi suất trong hạn và phải chịu mức lãi suất chậm trả lãi bằng 10%/năm theo đúng như thỏa thuận đã ký kết giữa các bên tại Hợp đồng tín dụng, đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ.

Do ông T1 và bà T vi phạm nghĩa vụ thanh toán, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp cũng như gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động của Ngân hàng, nên căn cứ Điều 91, 95 Luật Các tổ chức Tín dụng năm 2010; các Điều 280, Điều 463, Điều 466 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự, có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng. Buộc ông T1 và bà T có nghĩa vụ trả ngay cho Ngân hàng tổng số tiền tạm tính đến ngày 08/9/2023 là 504.010.174 đồng (trong đó: tiền nợ gốc là 360.306.000 đồng, tiền lãi trong hạn là 52.481.650 đồng, tiền lãi quá hạn là 86.149.950 đồng, lãi phạt là 5.072.574 đồng). Đồng thời, kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, ông T1 và bà T còn phải chịu khoản tiền lãi phát sinh của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ đã ký cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ cho Ngân hàng.

[7] Đối với tài sản thế chấp bảo đảm cho khoản vay là 01 xe Ô tô, nhãn hiệu MAZDA, số loại BT50, số máy P4AT27403.., số khung 4DD3KW9346.., loại xe Tải pickup cabin kép, màu sơn Trắng, biển số 72C-144…, giấy Chứng nhận đăng ký xe Ô tô số 0435.. do Phòng Cảnh sát giao thông, Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, cấp ngày 27/3/2019, tên chủ xe là bà Lê Thị Huyền T theo Hợp đồng thế chấp phương tiện vận tải số 2019.0340.HĐTC.6.., ngày 28/3/2019. Ngân hàng không yêu cầu Tòa án xử lý đối với tài sản thế chấp này. Xét, đây là quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự theo quy định tại Điều 5 của Bộ luật Tố tụng Dân sự nên Ngân hàng không yêu cầu, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[8] Nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự đối với giá trị tài sản phải thực hiện nghĩa vụ là 504.010.174 đồng (cụ thể: 20.000.000 đồng + 4% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng).

[9] Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật tố tụng Dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm h khoản 1 Điều 40; các Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 232, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; các Điều 280, Điều 463, Điều 466 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 90, Điều 91 và Điều 95 của Luật Các tổ chức Tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Q đối với ông Đỗ Văn T1 và bà Lê Thị Huyền T về việc “Tranh chấp Hợp đồng tín dụng”.

Buộc ông Đỗ Văn T1 và bà Lê Thị Huyền T có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Q tổng số tiền nợ tính đến ngày 08/9/2023 là 504.010.174 đồng (năm trăm lẻ bốn triệu không trăm mười nghìn một trăm bảy mươi bốn đồng).

Trong đó: tiền nợ gốc là 360.306.000 đồng, tiền lãi trong hạn là 52.481.650 đồng, tiền lãi quá hạn là 86.149.950 đồng, lãi phạt là 5.072.574 đồng theo Hợp đồng tín dụng số 2019.0340.HĐTD.6.., ngày 28/3/2019 và Đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 2019.0340.KUNN.6.., ngày 28/3/2019.

Kể từ ngày tiếp theo ngày xét xử sơ thẩm, ông Đỗ Văn T1 và bà Lê Thị Huyền T còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng đã ký kết cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong Hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với s ự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Ông Đỗ Văn T1 và bà Lê Thị Huyền T phải chịu 24.160.407 đồng (hai mươi bốn triệu một trăm sáu mươi nghìn bốn trăm lẻ bảy đồng) tiền án phí.

- Ngân hàng Thương mại Cổ phần Q không phải chịu tiền án phí. Trả lại cho Ngân hàng số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 9.446.000 đồng (chín triệu bốn trăm bốn mươi sáu nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0011524, ngày 06 tháng 12 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện X, tỉnh Bà Rịa–Vũng Tàu.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, và 9 của Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án Dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 72/2023/DS-ST

Số hiệu:72/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 08/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về