Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 14/2022/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 14/2022/DS-ST NGÀY 26/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 26 tháng 7 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Gia Laic xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 05/2022/TLST- DS ngày 17 tháng 02 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2021/QĐST-DS ngày 23 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2022/QĐST-DS ngày 13 tháng 7 năm 2022, giữa:

-Nguyên đơn: Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh G.

Địa chỉ: 01 A Phạm Văn Đồng, thành phố P, tỉnh G

-Người đại diện: Bà Đặng Thị Kim S – sinh năm 1969 – Chức vụ: Giám đốc.

-Người được ủy quyền tham gia tố tụng: Bà Nguyễn Thị L – sinh năm 1991 – Chức vụ: Cán bộ quản lý rủi ro Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh G;

Địa chỉ: 01 A Phạm Văn Đồng, thành phố P, tỉnh G. Bà L vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Nay H,M sinh năm 1995 Địa chỉ: Thôn P, xã I, huyện P, tỉnh G. Vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 25/12/2021 của nguyên đơn, cũng như các bản khai người đại diện cho nguyên đơn trình bày:

Ngày 25/5/2021 Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát tỉnh G cho bà Nay H vay số tiền: 15.000.000đồng (Mười lăm triệu đồng), thời hạn vay 12 tháng, lãi suất 0,8%/tháng.Theo hợp đồng, nếu bên vay vi phạm thời hạn trả nợ theo thỏa thuận thì phải chịu lãi suất nợ quá hạn đối với khoản nợ gốc quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn.

Ngày 25/7/2021 đến thời hạn nộp tiền gốc, lãi, tiết kiệm như cam kết vay nhưng bà Nay H không thực hiện việc trả gốc, lãi theo quy định.

Nay Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh G khởi kiện buộc bà Nay H phải trả cho Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh G toàn bộ nợ gốc, lãi và lãi phạt tạm tính đến ngày 25/5/2022. Tổng số tiền cả gốc và lãi là: 13.829.000đồng (Mười ba triệu tám trăm hai mươi chín ngàn đồng); trong đó:

+Nợ gốc: 12.500.000đồng +Lãi trong hạn: 1.170.000đồng;

+Lãi quá hạn của 11 tháng, tính đến ngày làm đơn khởi kiện là : 159.360đồng. Ngoài khoản lãi trên, nay yêu cầu tính thêm lãi suất quá hạn đến ngày xét xử tương ứng với tổng nợ gốc theo quy định của pháp luật.

Tại bản tự khai lập ngày 20 tháng 6 năm 2022, bị đơn bà Nay H trình bày:

Tháng 5 năm 2021, bà có vay của Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh G số tiền gốc là 15.000.000đồng với lãi suất 0,8%, thời hạn vay 12 tháng. Bà H đã trả số tiền 2.500.000đồng tiền gốc, do điều kiện kinh tế khó khăn nên không trả cho kỳ tiếp theo. Bà khẳng định bà còn nợ tổng số tiền gốc và lãi theo nguyên đơn yêu cầu là đúng; bà H khẳng định đây là khoản nợ riêng của bà thông qua chương trình cho vay đối với hội viên của chi hội phụ nữ thôn và bà H tự chịu trách nhiệm trả nợ, chồng bà không liên quan gì đến khoản nợ này.

* Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên Tòa phát biểu quan điểm:

+ Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành tố tụng theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt không có lý do nên Tòa án tiến hành giải quyết, xét xử vắng mặt là đúng quy định của pháp luật.

+ Về nội dung: Việc bị đơn không trả nợ cho nguyên đơn theo đúng thời hạn thỏa thuận trong hợp đồng vay vốn và khế ước nhận nợ hai bên đã ký là vi phạm hợp đồng tín dụng và các quy định của pháp luật. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về đòi nợ theo hợp đồng vay vốn là có căn cứ.

Từ những phân tích nhận định trên đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải trả số tiền nợ gốc: 12.500.000 đồng và lãi theo hợp đồng.

-Án phí sơ thẩm: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về tố tụng:

Nguyên đơn là Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh G khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn bà Nay H trả toàn bộ nợ gốc, lãi và lãi phạt hợp đồng. Đây là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn bà Nay H có địa chỉ cư trú tại thôn P, xã I, huyện P, tỉnh G nên căn cứ điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh G.

Tòa án đã tiến hành tống đạt trực tiếp các văn bản tố tụng cho bị đơn, bị đơn bà Nay H vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy Tòa án áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để tiến hành xét xử vắng mặt đương sự.

[2]Về nội dung: Nguyên đơn là Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh G khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn bà Nay H trả toàn bộ nợ gốc, lãi và lãi phạt tính đến ngày xét xử 26/7/2022 là: 14.110.000đồng (Mười bốn triệu một trăm mười ngàn đồng); trong đó:Nợ gốc: 12.500.000đồng; Lãi trong hạn: 1.170.000đồng; Lãi quá hạn: 440.610đồng. Xét thấy việc ký kết Hợp đồng tín dụng số HDTD0-0307-05/2021/HĐTD ngày 25/5/2021 giữa Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh G với bị đơn bà Nay H có hình thức và nội dung phù hợp với quy định của pháp luật. Trong hợp đồng này, các bên tự nguyện giao kết thực hiện hợp đồng và cam kết chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung hợp đồng, tại thời điểm ký kết hợp đồng các bên đều có đầy đủ năng lực về hành vi dân sự theo quy định của pháp luật, nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm và không trái đạo đức xã hội, do vậy hợp đồng trên là hợp pháp, đồng thời các bên phải chịu trách nhiệm về quyền và nghĩa vụ của mình.

Quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng bị đơn bà Nay H đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ của hợp đồng tín dụng trên đã bị chuyển sang nợ quá hạn. Mặc dù Quỹ hỗ trợ phụ nữ tỉnh G đã nhiều lần đôn đốc nhưng đến thời điểm hiện tại bị đơn vẫn không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ, tiếp tục vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng tín dụng đã ký kết, nên Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh G khởi kiện đến Tòa án. Tính đến thời điểm xét xử ngày 26/7/2022 bà Nay H còn nợ Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh G tổng số tiền: 14.110.000đồng (Mười bốn triệu một trăm mười ngàn đồng); trong đó:Nợ gốc: 12.500.000đồng; Lãi trong hạn: 1.170.000đồng; Lãi quá hạn: 440.610đồng . Xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật nên chấp nhận và buộc bị đơn Buộc bà Nay H phải thanh toán toàn bộ số nợ gốc và lãi cho Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh G số tiền: 14.110.000đồng (Mười bốn triệu một trăm mười ngàn đồng).

[3]Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4]Về án phí sơ thẩm: Bị đơn phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật;

- Nguyên đơn; bị đơn có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật;

Vì các căn cứ nhận định trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 30; Điều 35, Điều 39; khoản 1 Điều 147, Điểm b Khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Căn cứ Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Căn cứ Điều 11, 24 Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng theo Quyết định số: 1627/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 31/12/2001; Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

1.Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh G. Buộc bà Nay H phải thanh toán toàn bộ số nợ gốc và lãi cho Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh G số tiền: 14.110.000đồng (Mười bốn triệu một trăm mười ngàn đồng).

Kể từ ngày 26/7/2022, bị đơn bà Nay H còn phải tiếp tục chịu khoản lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc. Trường hợp trong hợp đồng ký, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Quỹ tín dụng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Quỹ tín dụng cho vay theo Quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất Quỹ tín dụng cho vay.

2.Về án phí: Bị đơn bà Nay H phải chịu án dân sự sơ thẩm có giá ngạch 5% là: 705.500 đồng (Bảy trăm lẻ năm ngàn năm trăm đồng).

- Hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí cho Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển tỉnh G số tiền tạm ứng án phí đã nộp 330.000 (Ba trăm ba mươi ngàn đồng) đồng theo biên lai số: 0007818 ngày 17 tháng 02 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh G.

3.Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày 26 tháng 7 năm 2022. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 14/2022/DS-ST

Số hiệu:14/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Thiện - Gia Lai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về