Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 104/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁP M, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 104/2023/DS-ST NGÀY 18/07/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Trong ngày 12 và 18 tháng 7 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tháp M xét xử sơ thẩm C khai vụ án dân sự thụ lý số: 110/2023/TLST-DS ngày 07 tháng 02 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng dân sự - Hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 85/2023/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 6 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số: 99/2023/QĐST-DS ngày 22 tháng 6 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP V (V). Địa chỉ trụ sở: 89 L, Phường L, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội.

Địa chỉ liên lạc: Tầng 5, Tòa nhà Báo Sài Gòn Giải Phòng, số 49, đường Cách mạng tháng 8, phường S, quận B, thành phố Cần Thơ.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Chí D; Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đỗ Thành T; Chức vụ: Phó Giám đốc khối Pháp chế và Kiểm soát tuân thủ, V Hội sở.

Người được ủy quyền lại là anh Huỳnh Minh Đ; Chức vụ Chuyên viên xử lý nợ.

- Bị đơn:

1. Bà Lê Thị Mỹ L, sinh năm 1982.

2. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1973.

Cùng địa chỉ: ấp 6A, xã Trường X, huyện Tháp M, Đồng Tháp.

(Anh Đ có mặt; bà L, ông C vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là anh Huỳnh Minh Đ trình bày:

Ông Nguyễn Văn C và bà Lê Thị Mỹ L có vay vốn của Ngân hàng TMCP V (V) – Chi nhánh Đồng Tháp theo hợp đồng tín dụng số 10018129/DTP/HĐTD ngày 04/11/2016; Giấy đăng ký vay tiêu dùng cá nhân, mở và sử dụng tài khoản thanh toán thẻ ghi nợ và dịch vụ ngân hàng điện tử số CN/VN0010226/201808/20 ký ngày 28/08/2018; Đề nghị kiêm hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ tín dụng số LN1904191351511 ngày 19/4/2019, cụ thể như sau:

- Hợp đồng tín dụng số 10018129/DTP/HĐTD ngày 04/11/2016 vay số tiền 110.000.000 đồng, lãi suất thả nổi, thời hạn vay là 48 tháng tính từ ngày 04/11/2016 đến ngày 04/11/2020, mục đích vay để mua xe.

- Giấy đăng ký vay tiêu dùng cá nhân, mở và sử dụng tài khoản thanh toán thẻ ghi nợ và dịch vụ ngân hàng điện tử số CN/VN0010226/201808/20 ký ngày 28/08/2018 vay số tiền 48.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận, thời hạn vay 36 tháng tính từ ngày 29/8/2018 đến ngày 15/8/2021, mục đích vay tiêu dùng.

- Đề nghị kiêm hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ tín dụng số LN1904191351511 ngày 19/4/2019 vay số tiền 7.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận, không có thời hạn vay, mục đích vay tiêu dùng.

Tổng cộng số tiền ông C, bà L vay tại Ngân hàng TMCP V (V) – Chi nhánh Đồng Tháp là 160.000.000 đồng.

Để bảo đảm cho các khoản vay trên ông C, bà L đã ký hợp đồng thế chấp số 10018129/DTP/HĐTCSP ký ngày 04/11/2016, đã đăng ký thế chấp được Trung tâm đăng ký giao dịch bảo đảm tại TP Hồ Chí Minh chứng nhận số 1229894381 có hiệu lực đăng ký vào ngày 04/11/2016 với tài sản bảo đảm cho các khoản vay là toàn bộ quyền sở hữu/sử dụng xe ô tô tải nhãn hiệu THACO, số loại TOWER750A, biển số 66C-X, số khung RNHC075ACG010344, số máy DA465QE66009813F5, do Lê Thị Mỹ L đứng tên sở hữu theo giấy hẹn đăng ký xe ô tô do Phòng Cảnh sát giao thông C an tỉnh Đồng Tháp cấp ngày 31/10/2016.

Trong quá trình vay vốn, ông C, bà L đã trả cho V số tiền gốc 101.916.355 đồng và tiền lãi 28.546.608 đồng, tổng cộng là 130.462.963 đồng. Sau đó ông Nguyễn Văn C, bà Lê Thị Mỹ L đã không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ cho V. V đã nhiều lần liên hệ và làm việc với ông C, bà L để yêu cầu trả số nợ vay còn lại nhưng ông C, bà L cố tình kéo dài thời gian, trốn tránh nghĩa thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho V. Tính đến ngày 12/7/2023 ông Nguyễn Văn C và bà Lê Thị Mỹ L còn nợ Ngân hàng TMCP V (V) – Chi nhánh Đồng Tháp tổng cộng số tiền là 117.692.103 đồng, trong đó: nợ gốc là 58.083.645 đồng, tiền lãi là 59.608.458 đồng.

Nay, Ngân hàng TMCP V (V) – Chi nhánh Đồng Tháp yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Lê Thị Mỹ L và ông Nguyễn Văn C phải thanh toán cho Ngân hàng V số tiền còn nợ của 3 khoản vay tạm tính đến ngày 12/7/2023 tổng cộng số tiền là 117.692.103 đồng, trong đó: nợ gốc là 58.083.645 đồng, tiền lãi là 59.608.458 đồng . Ngoài ra kể từ ngày 13/7/2023 trở đi bà Lê Thị Mỹ L và ông Nguyễn Văn C còn phải tiếp tục chịu lãi, lãi quá hạn phát sinh theo các Hợp đồng tín dụng đã ký cho đến khi thanh toán xong toàn bộ số nợ cho V.

Trường hợp bà Lê Thị Mỹ L và ông Nguyễn Văn C không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trên và lãi phát sinh thì Ngân hàng V có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi toàn bộ nợ vay là: Toàn bộ quyền sở hữu, sử dụng 01 xe ô tô tải nhãn hiệu THACO, số loại TOWNER750A, biển số 66C- X, số khung RNHC075ACGC010344, số máy DA465QE66009813F5, do Lê Thị Mỹ L đứng tên sở hữu theo giấy hẹn đăng ký xe ô tô do Phòng Cảnh sát giao thông C an tỉnh Đồng Tháp cấp ngày 31/10/2016 để đảm bảo thu hồi nợ cho ngân hàng.

- Tại văn bản ghi ý kiến ngày 14/7/2023, bị đơn Lê Thị Mỹ L trình bày:

Thừa nhận có vay 3 khoản tiền như Ngân hàng V trình bày, mục đích để mua xe tải và vay tiêu dùng, thời gian đầu bà góp đầy đủ cho Ngân hàng nhưng đến tháng 01 năm 2020 thì ngưng, do dịch bệnh và làm ăn khó khăn nên không thanh toán tiếp cho Ngân hàng. Khi vay, bà có thế chấp giấy tờ của chiếc xe tải hiệu THACO biển số 66C-X do bà đứng tên sở hữu. Nay, ngân hàng yêu cầu trả gốc của 3 khoản vay là 58.083.645 đồng và lãi tạm tính đến ngày 12/7/2023 là 59.608.458 đồng, tổng cộng 117.692.458 đồng, bà đồng ý. Đối với việc ngân hàng yêu cầu xử lý tài sản là chiếc xe tải bán để thu hồi nợ, bà đồng ý.

Ông Nguyễn Văn C đã được tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án và được triệu tập xét xử hợp lệ, biết nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng không có ý kiến, cũng không phản đối yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không tham gia hòa giải và không có mặt tại phiên tòa sơ thẩm.

Các Các tài liệu trong hồ sơ đã được C khai theo Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, C khai chứng cứ ngày 04 tháng 4 năm 2023.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Ngân hàng TMCP V (V) – Chi nhánh Đồng Tháp yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Lê Thị Mỹ L và ông Nguyễn Văn C phải thanh toán cho Ngân hàng V số tiền vay tạm tính đến ngày 12/7/2023 tổng cộng số tiền là 117.692.103 đồng, trong đó, nợ gốc là 58.083.645 đồng, tiền lãi là 59.608.458 đồng . Ngoài ra kể từ ngày 13/7/2023 trở đi bà Lê Thị Mỹ L và ông Nguyễn Văn C còn phải tiếp tục chịu lãi, lãi quá hạn phát sinh theo các Hợp đồng tín dụ ng đã ký cho đến khi thanh toán xong toàn bộ số nợ cho V. Trường hợp bà Lê Thị Mỹ L và ông Nguyễn Văn C không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trên và lãi phát sinh thì Ngân hàng V có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi toàn bộ nợ vay là: Toàn bộ quyền sở hữu, sử dụng 01 xe ô tô tải nhãn hiệu THACO, số loại TOWNER750A, biển số 66C-X, số khung RNHC075ACGC010344, số máy DA465QE66009813F5, do Lê Thị Mỹ L đứng tên sở hữu theo giấy hẹn đăng ký xe ô tô do Phòng Cảnh sát giao thông C an tỉnh Đồng Tháp cấp ngày 31/10/2016 để đảm bảo thu hồi nợ cho ngân hàng. Ngoài ra, các đương sự không ai có yêu cầu nào khác nên xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng dân sự - Hợp đồng tín dụng” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền: Do bị đơn có địa chỉ ở ấp 6A, xã Trường X, huyện Tháp M, tỉnh Đồng Tháp nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tháp M theo quy định tại Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về sự có mặt của đương sự tại phiên tòa: Ông Nguyễn Văn C và bà Lê Thị Mỹ L đã được triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ 02 nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa mà không có lý do. Do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông C, bà L theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Xét yêu cầu của Ngân hàng TMCP V (V) – Chi nhánh Đồng Tháp là có căn cứ chấp nhận bởi lẽ:

Căn cứ hợp đồng tín dụng số: 10018129/DTP/HĐTD ngày 04/11/2016 bà L và ông C vay số tiền 110.000.000 đồng; ngày 28/08/2018 ký giấy đăng ký vay tiêu dùng cá nhân, mở và sử dụng tài khoản thanh toán thẻ ghi nợ và dịch vụ ngân hàng điện tử số CN/VN0010226/201808/20 vay số tiền 43.000.000; ngày 19/4/2019 ký đề nghị kiêm hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ tín dụng số LN1904191351511 ngày 19/4/2019 vay số tiền 7.000.000 đồng, tổng cộng ông C, bà L vay số tiền 160.000.000 đồng được ký giữa TMCP V (V) – Chi nhánh Đồng Tháp với ông Nguyễn Văn C và bà Lê Thị Mỹ L là hợp pháp, thể hiện sự tự nguyện thỏa thuận giữa hai bên, không trái pháp luật, không trái đạo Đ xã hội, lúc giao kết hợp đồng hai bên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Nhưng quá trình thực hiện hợp đồng, ông C và bà L chưa trả đầy đủ gốc, lãi cho Ngân hàng dẫn đến nợ quá hạn là vi phạm nghĩa vụ trả nợ được quy định tại Điều 280 và Điều 466 Bộ luật dân sự 2015.

Theo Điều 280 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:

“1. Nghĩa vụ trả tiền phải được thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn, đúng địa điểm và phương thức đã thỏa thuận.

2. Nghĩa vụ trả tiền bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc …….” Tại Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:

1.“Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, ông C không có văn bản ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn. Do đó, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xác định ông C có ký hợp đồng vay số tiền 110.000.000 đồng, nên việc Ngân hàng yêu cầu ông C và bà L có trách nhiệm trả gốc và lãi 117. 692.458 đồng và lãi phát sinh theo thỏa thuận hợp đồng tính từ ngày 13/7/2023 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận.

Mặc khác, tại Văn bản ghi ý kiến ngày 14/7/2023, bà Lê Thị Mỹ L thừa nhận có vay, có trả gốc lãi cho Ngân hang đầy đủ. Tuy nhiên, đến tháng 01 năm 2020 thì ngưng không trả nữa do làm ăn khó khăn, không còn khả năng thanh toán. Việc vay tiền này ông C chồng biết. Nay, Ngân hàng yêu cầu trả gốc và lãi tổng cộng 117.692.458, đồng bà đồng ý.

[5] Xét hợp đồng thế chấp xe ô tô số 10018129/DTP/HĐTCSP ngày 04/11/2016 được ký kết giữa ông Nguyễn Văn C, bà Lê Thị Mỹ L và Ngân hàng TMCP V, Hội đồng xét xử xét thấy:

Theo nội dung Hợp đồng thế chấp thì ông C, bà L đồng ý dùng tài sản của mình là toàn bộ quyền sở hữu/sử dụng xe ô tô tải nhãn hiệu THACO, số loại TOWER750A, biển số 66C-X, số khung RNHC075ACG010344, số máy DA465QE66009813F5, do Lê Thị Mỹ L đứng tên sở hữu theo giấy hẹn đăng ký xe ô tô do Phòng Cảnh sát giao thông C an tỉnh Đồng Tháp cấp ngày 31/10/2016 để thế chấp tại Ngân hàng TMCP V nhằm đảm bảo các khoản vay tại V và hợp đồng thế chấp được Trung tâm đăng ký giao dịch bảo đảm tại TP Hồ Chí Minh chứng nhận số 1229894381 có hiệu lực đăng ký vào ngày 04/11/2016 theo đúng quy định pháp luật nên hợp đồng thế chấp xe ô tô của ông C, bà L với Ngân hàng TMCP V là hợp pháp.

[6] Từ những phân tích nêu trên Hội đồng xét xử xác định, ông C, bà L có vay vốn Ngân hàng TMCP V (V) – Chi nhánh Đồng Tháp với số tiền 160.000.000 đồng, ông C, bà L đã trả cho V số tiền 130.462.963 đồng (trong đó: gốc 101.916.355 đồng và tiền lãi 28.546.608 đồng); hiện nay, tính đến ngày xét xử sơ thẩm 12/7/2023 thì ông Nguyễn Văn C và bà Lê Thị Mỹ L còn nợ Ngân hàng TMCP V (V) – Chi nhánh Đồng Tháp tổng cộng số tiền là 117.692.103 đồng (tiền gốc là 58.083.645 đồng, tiền lãi là 59.608.458 đồng) và trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng ông C, bà L đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông C, bà L có nghĩa vụ trả nợ bao gồm nợ gốc và nợ lãi cho Ngân hàng và yêu cầu xử lý tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp đã ký kết với Ngân hàng là có cơ sở.

Do đó chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng TMCP V (V), buộc ông Nguyễn Văn C và bà Lê Thị Mỹ L có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng với số tiền tổng cộng 117.692.103 đồng (tiền gốc là 58.083.645 đồng, tiền lãi là 59.608.458 đồng) và chấp nhận yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của Ngân hàng TMCP V, Ngân TMCP V có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi toàn bộ nợ vay là: Toàn bộ quyền sở hữu, sử dụng 01 xe ô tô tải nhãn h iệu THACO, số loại TOWNER750A, biển số 66C-X, số khung RNHC075ACGC010344, số máy DA465QE66009813F5, do Lê Thị Mỹ L đứng tên sở hữu theo giấy hẹn đăng ký xe ô tô do Phòng Cảnh sát giao thông C an tỉnh Đồng Tháp cấp ngày 31/10/2016.

[7] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng, án phí, lệ phí Tòa án thì ông C, bà L phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 280, 463, Điều 466, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng, án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP V (V). Buộc ông Nguyễn Văn C và bà Lê Thị Mỹ L có trách nhiệm trả cho Ngân hàng TMCP V tổng cộng số tiền vay còn nợ 117.692.103 đồng (trong đó: tiền gốc 58.083.645 đồng, tiền lãi 59.608.458 đồng).

- Chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng TMCP V yêu cầu xử lý tài sản thế chấp để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng TMCP V.

Sau khi ông C, bà L thanh toán toàn bộ số nợ gốc và nợ lãi nêu trên cho Ngân hàng, thì Ngân hàng có nghĩa vụ hoàn trả bản chính giấy tờ của tài sản thế chấp là quyền sở hữu/sử dụng xe ô tô tải nhãn hiệu THACO, số loại TOWER750A, biển số 66C-X, số khung RNHC075ACG010344, số máy DA465QE66009813F5, do Lê Thị Mỹ L đứng tên sở hữu theo giấy hẹn đăng ký xe ô tô do Phòng Cảnh sát giao thông C an tỉnh Đồng Tháp cấp ngày 31/10/2016.

Trường hợp, ông C và bà L không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc thực hiện nghĩa vụ không đầy đủ, thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp là quyền sở hữu/sử dụng xe ô tô tải nhãn hiệu THACO, số loại TOWER750A, biển số 66C-X do bà L đứng tên của Hợp đồng thế chấp số 10018129/DTP/HĐTCSP ngày 04/11/2016 được ký kết giữa ông C, bà L với Ngân hàng.

- Số tiền gốc chưa thi hành thì phải chịu lãi suất tiếp theo (từ ngày 13/7/2023), theo hợp đồng tín dụng số: 10018129/DTP/HĐTD ngày 28/08/2018.

- Về án phí:

+ Ngân hàng TMCP V được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 1.841.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0007996 ngày 10/8/2022 và được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 2.645.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0017112 ngày 28/02/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tháp M. Tổng cộng: 4.486.000 đồng.

+ Ông Nguyễn Văn C và bà Lê Thị Mỹ L phải chịu 5.884.500 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

80
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 104/2023/DS-ST

Số hiệu:104/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tháp Mười - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về