Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 02/2023/KDTM-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SẦM SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 02/2023/KDTM-ST NGÀY 14/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 14/9/2023, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, xét xử công khai vụ án kinh doanh thương mại sơ thẩm thụ lý số: 07/2022/TLST- KDTM ngày 09/5/2022, về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2023/QĐXXST-KDTM ngày 11/8/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 04/2023/QĐST-KDTM ngày 23/8/2023.

Giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Địa chỉ: Số 02 H, phường T Công, quận Ba Đình, H Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Tiết Văn T – Tổng giám đốc A.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thái Tr - Giám đốc A – Chi nhánh B.

Người đại diện tham gia tố tụng: Ông Trương Văn Điệp- Phó Giám đốc A - Chi nhánh B. Có mặt.

Cùng địa chỉ: Số 39 đường X, phường S, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

- Bị đơn: Doanh nghiệp thương mại dịch vụ du lịch tư nhân Hùng H Sầm Sơn.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Cao Văn H – Giám đốc.

Địa chỉ cũ: Số 90 Lê Lợi, phường S, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Nơi ở hiện nay: Khu phố T, phường S, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Văn Đình T1 - Sinh năm 1981.

2. Bà Lê Thị L - Sinh năm 1982.

Cùng địa chỉ: Khu phố S, phường S, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

3. Bà Nguyễn Thị H - sinh năm 1963.

Địa chỉ: Khu phố T, phường S, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. (Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt tại phiên tòa không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, quá trình giải quyết và tại phiên tòa các đương sự trình bày:

- Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Trương Văn Điệp, trình bày: Năm 2015, Doanh nghiệp tư nhân Hùng H Sầm Sơn vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh B để phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Trên cơ sở hồ sơ vay vốn, Ngân hàng đã thẩm định, đánh giá các mục đích vay vốn, phương án kinh doanh, tài sản thế chấp và phê duyệt cho Doanh nghiệp được vay vốn và ký kết với nhau Hợp đồng tín dụng số 3590-LAV-201500546 ngày 08/04/2015; Số tiền cho vay: 1.600.000.000 đồng (Một tỷ sáu trăm triệu đồng); Mục đích vay vốn:

Mua hàng bia chai, bia lon các loại; Thời hạn hợp đồng: 12 tháng. Thời hạn trả nợ:

05/04/2016; Dư nợ hiện tại: 1.000.000 đồng; Chuyển nợ quá hạn từ ngày 06/04/2016; Lãi vay chưa trả tạm tính đến ngày 25/03/2022 là: 20.306.652đồng Hợp đồng tín dụng số 3590-LAV-201500787 ngày 19/05/2015; Hạn mức cho vay:

8.000.000.000 đồng (Tám tỷ đồng); Mục đích vay vốn: Bổ sung vốn lưu động cho hoạt động kinh doanh; Thời hạn hợp đồng: 12 tháng; Dư nợ hiện tại: 741.000.000 đồng; Chuyển nợ quá hạn từ ngày 29/03/2016; Lãi vay chưa trả tạm tính đến ngày 25/03/2022 là: 636.645.601 đồng.

Tài sản dùng thế chấp bảo đảm cho khoản vay bao gồm:

1. Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: BO 925424, Vào sổ cấp GCN QSDĐ số: CH00771 QĐ:1296/QĐ-UBND do UBND thị xã Sầm Sơn (Nay là thành phố Sầm Sơn) cấp ngày 27/06/2013 thuộc quyền sở hữu của ông Văn Đình T1 và bà Lê Thị L, tại Khu phố Sơn Lợi, phường S, TP. Sầm Sơn, Thanh Hóa; Tài sản gắn liền với đất là nhà ở có diện tích xây dựng 100 m2 ; Diện tích sàn: 200 m2; Số tầng: 02; Kết cấu: Tường gạch, mái bê tông; Cấp hạng: C4 theo trang bổ sung Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất do Phòng Tài nguyên và Môi trường Thị xã Sầm Sơn (nay là T phố Sầm Sơn) cấp ngày 09/05/2014;

2. Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo GCNQSDĐ số: AD 416400 do UBND thị xã Sầm Sơn (Nay là thành phố Sầm Sơn), cấp ngày 16/11/2005 thuộc quyền sở hữu của ông Cao Văn T2 và bà Cao Thị D, tại khu phố S, phường S, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Quá trình thực hiện hợp đồng, Doanh nghiệp Tư nhân Hùng H, vi phạm nghĩa vụ trả nợ, nên khoản vay đã chuyển thành nợ quá hạn tạm tính đến ngày 25/03/2022, tổng số tiền nợ của cả 02 hợp đồng nêu trên là: 1.398.952.253đồng (Một tỷ, ba trăm chín mươi tám triệu, chín trăm năm hai ngàn, hai trăm năm ba đồng). Trong đó gốc: 742.000.000đồng; Lãi trong hạn và quá hạn là: 656.952.253đồng. Do đó, Ngân hàng khởi kiện đề nghị Tòa án buộc Doanh nghiệp Tư nhân Hùng H Sầm Sơn phải thanh toán cho Ngân hàng các khoản nợ và tiếp tục chịu khoản lãi phát sinh theo quy định tại các hợp đồng tín dụng đã ký cho đến khi thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ. Trường hợp, Doanh nghiệp tư nhân Hùng H, không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền kê biên, xử lý tài sản bảo đảm theo hợp đồng thế chấp giữa các bên để thu hồi nợ.

Quá trình giải quyết vụ án ngày 20/6/2023, nguyên đơn A có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện, nội dung: Rút và đề nghị không xử lý tài sản của ông T2 và bà D.

- Bị đơn: Doanh nghiệp tư nhân Hùng H Sầm Sơn, người đại diện theo pháp luật, ông Cao Văn Hùng: Quá trình giải quyết vụ án đã nhận thông báo về việc khởi kiện của Ngân hàng và các Văn bản tố tụng của Tòa án nhưng đều vắng mặt. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án ông Hùng cung cấp các tài liệu, chứng cứ cho Tòa án với nội dung: Do bản thân thường xuyên ốm đau phải đi điều trị tại các bệnh viện, quá trình vay vốn Doanh nghiệp đã rất nổ lực, tích trả nợ nhưng đến nay vẫn còn nợ lại một khoản tiền, lý do chưa thanh toán được là vì quá trình kinh doanh gặp trở ngại khó khăn, sự việc bất khả kháng, rủi do, do dịch covid kéo dài nên việc kinh doanh bị hạn chế dẫn đến phá sản va tôi xin hứa nếu trong thời gian tới bệnh tình thuyên giảm tôi sẻ cố gắng thu xếp thanh toán khoản nợ cho Ngân hàng và xin Ngân hàng giải chấp tài sản dùng thế chấp cho khoản vay để trả lại cho gia đình nhà anh T1 và chị L.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Ông Văn Đình T1; Bà Lê Thị L; Cao Văn T2 và Cao thị D, đều trình bày: Trước đây gia đình tôi thấy vợ chồng nhà Bác Hùng, H, là doanh nghiệp có bán hàng tạp hóa rất nhiều, vì là chỗ thân quen tin tưởng nên đã cho mượn tài sản để thế chấp vay tiền kinh doanh, tôi không biết vì lý do gì một một thời gian sau Doanh nghiệp Hùng H bị phá sản, gia đình tôi nhiều lần đến thúc dục ông Hùng trả nợ cho Ngân hàng để gia đình tôi lấy lại tài sản, nhưng lần nào đến ông Hùng cũng cởi hết quần áo ra, nói lẩm bẩm như kiểu bị bệnh tâm thần nên vợ chồng tôi lại về. Nay, vợ chồng tôi có nhận được các giấy tờ của Tòa án yêu cầu đến Tòa án để giải quyết về số tiền mà ông Hùng vay của Ngân hàng do đã dùng tài sản của gia đình tôi để thế chấp, vì số tiền Doanh nghiệp Hùng H vay quá lớn mấy trăm triệu gia đình tôi không thể trả được. Vợ chồng tôi đề nghị Doanh nghiệp Hùng H phải có trách nhiệm trả số tiền cho Ngân hàng để Ngân hàng trả lại tài sản cho gia đình tôi.

Bà Nguyễn Thị H: Quá trình giải quyết vụ án xét thấy bà Nguyễn Thị H, có tham gia thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên thứ 3 nên cần thiết phải đưa Bà Nguyễn Thị H vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án là đúng theo quy định tại các điều 68; 70; 73 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ngày 19/7/2022, Tòa án tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: BO 925424, do UBND thị xã Sầm Sơn (nay thành phố Sầm Sơn), tỉnh Thanh Hóa cấp ngày 27/06/2013, tại Khu phố Sơn Lợi, phường S, thành phố Sầm Sơn, Thanh Hóa, thuộc quyền sở hữu của ông Văn Đình T1 và bà Lê Thị L. Kết quả giữ nguyên hiện trạng như đã mô tả tại Hợp đồng thế chấp số 20140510.01/HĐTC ngày 10/5/2014.

Quá trình giải quyết vụ án: Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng đúng theo quy định pháp luật, nhưng bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt nên đại diện nguyên đơn A đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải nữa mà sớm quyết định đưa vụ án ra xét xử theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, nguyên đơn A giữ nguyên phần yêu cầu khởi kiện còn lại.

Đại diện Viện kiểm phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm nghị án đã thực hiện đúng theo qui định của pháp luật. Nguyên đơn chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70; 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không thực hiện đúng theo quy định tại các điều 70; 72; 73 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Căn cứ điều 299; 317; 468 Bộ luật dân sự; Điều 91; 95 Luật tổ chức tín dụng; khoản 2 điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, qui định về án phí và lệ phí Tòa án.

Đề nghị HĐXX:

1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn A - Chi nhánh B đối với với không xử lý tài sản của ông T2 và bà D.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của A - Chi nhánh B.

Buộc Doanh nghiệp Tư nhân thương mại dịch vụ du lịch Hùng H Sầm Sơn, phải thanh toán cho A - Chi nhánh B, tổng số tiền gốc và lãi tính đến hết ngày 14/9/2023 là: 1.453.244.393đồng (Một tỷ, bốn trăm, năm mươi ba triệu, hai trăm bốn mươi bốn nghìn, ba trăm chín ba đồng). Trong đó nợ gốc:

742.000.000đồng; lãi trong hạn: 44.626.933đồng; lãi quá hạn: 666.617.460đồng. và Doanh nghiệp Tư nhân thương mại dịch vụ du lịch Hùng H Sầm Sơn, tiếp tục chịu khoản tiền lãi phát sinh tiếp theo kể từ nagỳ 15/9/2023 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ gốc theo mức lãi xuất theo các hợp đồng tín dụng vay vốn đã được các bên ký kết. Trường hợp Doanh nghiệp tư nhân Hùng H không trả nợ thì Ngân hàng yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sầm Sơn kê biên xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ.

Về án phí: Yêu cầu của nguyên đơn A - Chi nhánh B được chấp nhận nên bị đơn Doanh nghiệp Tư nhân Hùng H Sầm Sơn phải chịu toàn bộ án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm có giá ngạch theo qui định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, quan điểm giải quyết vụ án của đại diện VKS về hướng giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Tranh chấp giữa các đương sự là «Tranh chấp hợp đồng tín dụng» theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn cư trú tại phường S thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa là đúng theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2].Về rút yêu cầu khởi kiện: Ngày 20/6/2023 đại diện nguyên đơn A rút một phần yêu cầu khởi kiện về tài sản của ông T2 và bà D. Xét thấy, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn hoàn toàn tự nguyện. Căn cứ điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[3]. Đối với những người tham gia tố tụng: Ông Văn Đình T1 và bà Lê Thị L, có liên quan đến tài sản thế chấp bảo đảm cho khoản vay là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: BO 925424, do UBND thị xã Sầm Sơn (nay thành phố Sầm Sơn), tỉnh Thanh Hóa cấp ngày 27/06/2013. Địa chỉ: Khu phố Sơn Lợi, phường S, thành phố Sầm Sơn, Thanh Hóa, thuộc quyền sở hữu của ông Văn Đình T1 và bà Lê Thị L và Bà Nguyễn Thị H, có tham gia thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên thứ ba, tài liệu phản ánh có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, xác định ông T1 và bà L, bà H là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án là đúng theo quy định tại điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với ông Cao Văn T2 và bà Cao Thị D; Cao Thị Tỵ, do đại diện nguyên đơn đã rút và đề nghị Tòa án không xử lý tài sản của ông T2 và bà D nên không xác định ông T2, bà D và bà Tỵ là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

[3]. Về nội dung yêu cầu giải quyết: Đối với Hợp đồng tín dụng số 3590- LAV-201500546 ngày 08/04/2015 và Hợp đồng tín dụng số 3590-LAV- 201500787 ngày 19/05/2015. Các bên ký kết có nội dung, điều khoản thỏa thuận nêu trong hợp đồng là đúng quy định của pháp luật. Sau khi ký kết, Ngân hàng thực hiện giải ngân theo đúng tiến độ cho Doanh nghiệp Tư nhân Hùng H. Quá trình thực hiện hợp đồng Doanh nghiện Tư nhân Hùng H có thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhưng không đầy đủ, không đúng cam kết. Do đó, tính đến ngày 25/3/25/03/2022, Doanh nghiệp Tư nhân Hùng H vi phạm nghĩa vụ trả nợ tổng của cả 02 hợp đồng nêu trên là: 1.398.952.253đồng. Do đó, yêu cầu của Ngân hàng: Buộc Doanh nghiệp tư nhân Hùng H Sầm Sơn phải thanh toán cho A đến hết ngày 14/9/2023, tổng số nợ gốc và lãi là: 1.453.244.393đồng (Một tỷ, bốn trăm, năm mươi ba triệu, hai trăm bốn mươi bốn nghìn, ba trăm chín ba đồng). Trong đó nợ gốc: 742.000.000đồng; lãi trong hạn: 44.626.933đồng; lãi quá hạn: 666.617.460đồng và tiền lãi phát sinh tiếp theo kể từ nagỳ 15/9/2023 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ gốc theo mức lãi xuất đã cam kết tại các hợp đồng tín dụng vay vốn nêu trên, là có căn cứ nên được chấp nhận.

Về tài sản thế chấp: Trường hợp, Doanh nghiệp Tư nhân Hùng H Sầm Sơn, không thanh toán được khoản nợ trên cho A - Chi nhánh B, thì sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật, Ngân hàng có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan có thẩm quyền kê biên, phát mại tài sản tại hợp đồng thế chấp số 20140510.01/HĐTC ngày 10/5/2014 để thu hồi nợ.

Về án phí: Yêu cầu của nguyên đơn A - Chi nhánh B được chấp nhận nên bị đơn Doanh nghiệp Tư nhân Hùng H Sầm Sơn phải chịu toàn bộ án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm có giá ngạch theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: - Khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; 147; 235; 271; 273; 244; 266 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 91; 95 Luật tổ chức tín dụng; Điều 299; 317; 468 Bộ luật dân sự; Khoản 1 Điều 167 Luật đất đai; Điều 31; 32; 33; 34; 35; 36; 37 Luật hôn nhân gia đình.

- Khoản 6 Điều 19; Điều 24; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 qui định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn A - Chi nhánh B.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của A - Chi nhánh B.

Buộc Doanh nghiệp Tư nhân Hùng H Sầm Sơn, phải thanh toán cho A - Chi nhánh B, tổng số tiền nợ gốc và lãi tính đến hết ngày 14/9/2023 là: 1.453.244.393đồng (Một tỷ, bốn trăm, năm mươi ba triệu, hai trăm bốn mươi bốn nghìn, ba trăm chín ba đồng). Trong đó nợ gốc: 742.000.000đồng;

lãi trong hạn: 44.626.933đồng; lãi quá hạn: 666.617.460đồng. Trường hợp, Doanh nghiệp Tư nhân Hùng H Sầm Sơn tiếp tục phải chịu khoản tiền lãi phát sinh tiếp theo kể từ nagỳ 15/9/2023 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ gốc theo mức lãi xuất đã cam kết tại các hợp đồng tín dụng vay vốn.

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật nếu Doanh nghiệp Tư nhân Hùng H Sầm Sơn, không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ khoản nợ trên cho A - Chi nhánh B, thì Ngân hàng có quyền yêu cầu kê biên, phát mại tài sản thế chấp tại hợp đồng thế chấp số 20140510.01/HĐTC ngày 10/5/2014, là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: BO 925424, Vào sổ cấp GCN QSDĐ số: CH00771 QĐ:1296/QĐ-UBND do UBND thị xã Sầm Sơn (Nay là thành phố Sầm Sơn) cấp ngày 27/06/2013 và tài sản gắn liền với đất là nhà ở có diện tích xây dựng 100 m2 ; Diện tích sàn: 200 m2; Số tầng: 02; Kết cấu: Tường gạch, mái bê tông; Cấp hạng:

C4 theo trang bổ sung Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất do Phòng Tài nguyên và Môi trường Thị xã Sầm Sơn (nay là T phố Sầm Sơn) cấp ngày 09/05/2014.

Địa chỉ tại Khu phố Sơn Lợi, phường S, TP. Sầm Sơn, Thanh Hóa, thuộc quyền sở hữu của ông Văn Đình T1 và bà Lê Thị L.

Về án phí: Doanh nghiệp Tư nhân Hùng H Sầm Sơn, phải chịu 55.597.331đồng. (Năm mươi năm triệu, năm trăm chín mươi bảy nghìn, ba trăm ba mốt đồng) - Đã làm tròn số - Ngân hàng A - Chi nhánh B, được nhân lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 27.000.000 đồng (Hai mươi bảy triệu đồng), theo biên lai thu số AA/2021/0013247 ngày 06/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 02/2023/KDTM-ST

Số hiệu:02/2023/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sầm Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 14/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về