Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 117/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BN ÁN 117/2021/DS-ST NGÀY 23/12/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 23 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xét xử công khai vụ án thụ lý số 206/2021/TLST-DS, ngày 13 tháng 5 năm 2021 về việc tranh chấp “Hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 133/2021/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 11 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1985 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn: Bà Phạm Thị P, sinh năm 1976 (vắng mặt).

Đa chỉ: Ấp A, xã B, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

I. Phần trình bày của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim C:

Ti đơn khởi kiện ngày 25/02/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim C trình bày:

Chị C và bà P là bà con lối xóm, nhà gần nhau. Thấy bà P có mở và làm đầu thảo nhiều dây hụi và làm ăn rất uy tín, nếu ai hốt hụi thì giao đầy đủ, nên tin tưởng. Trong thời gian từ năm 2017 đến năm 2019 chị tham gia góp 03 dây hụi. Đến tháng 9/2019 bà P ngưng hụi và không trả lại tiền hụi cho chị. Cụ thể như sau:

Dây 1: Khui ngày 10/10/2017 (âm lịch), hụi tiền, mỗi phần là 2.000.000đ, một tháng khui một lần, dây hụi có 23 phần, chị C góp 02 phần và góp được 24 kỳ hụi sống X 2.000.000đ/1 phần X 2 phần = 96.000.000đ.

Dây 2: Khui ngày 20/4/2018 (âm lịch), hụi tiền, mỗi phần là 2.000.000đ, một tháng khui một lần, dây hụi có 23 phần, chị C góp 01 phần và góp được 18 kỳ hụi sống X 2.000.000đ = 36.000.000đ.

Dây 3: Khui ngày 20/01/2019 (âm lịch), hụi tiền, mỗi phần là 2.000.000đ, một tháng khui một lần, dây hụi có 26 phần, chị C góp 02 phần, chị góp được 9 kỳ hụi sống X 2.000.000đ X 02 phần = 36.000.000đ.

Sau khi ngưng hụi bà P còn nợ chị C tổng cộng 3 dây hụi là 168.000.000đ. Tại phiên tòa hôm nay chị C cũng chấp nhận trả lại cho bà P số tiền hoa hồng mà hai bên đã thỏa thuận hụi 2.000.000đ là 500.000đ/1 phần. Cụ thể 05 dây hụi 2.000.000đ X 500.000đ = 2.500.000đ.

Nay chị C khởi kiện yêu cầu bà P trả toàn bộ số tiền hụi trên là 168.000.000đ – 2.500.000đ tiền hoa hồng. Còn lại là 165.500.000đ và yêu cầu một lần sau khi có hiệu lực pháp luật.

II. Phần trình bày của bị đơn bà Phạm Thị P:

Bà Phạm Thị P dù được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án về yêu cầu khởi kiện của chị C đòi bà P trả tiền nợ 03 dây hụi là 165.500.000.000đ, và triệu tập hợp lệ đến Tòa án để giải quyết vụ án nhiều lần, nhưng bà P vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến về việc vắng mặt của bà cũng như yêu cầu khởi kiện của chị C.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng dân sự:

- Về thẩm quyền giải quyết vụ án:

Chị C có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng góp hụi với bà P có địa chỉ tại ấp A, xã B, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Theo quy định tại khoản 3 Điều 26; Điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1; Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

- Về việc giải quyết vụ án vắng mặt đương sự.

Bà Phạm Thị P là bị đơn trong vụ án, mặt dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án về yêu cầu khởi kiện của chị C đòi bà P trả tiền nợ 03 dây hụi là 165.500.000đ, và triệu tập hợp lệ đến Tòa án để giải quyết vụ án nhiều lần, nhưng bà P vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến về việc vắng mặt của bà cũng như yêu cầu khởi kiện của chị C. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228 xét xử vắng mặt bà P.

[2] Về nội dung vụ án:

Nguyên đơn chị C trình bày từ năm 2017 đến nay chị C tham gia góp 03 dây hụi tháng. Đến tháng 9/2019 bà P tuyên bố ngưng hụi, mà không trả lại tiền hụi cho chị. Nên chị khởi kiện đòi bà P trả tiền 03 dây hụi, tổng cộng là 168.000.000đ. Tại phiên tòa hôm nay chị C đồng ý trừ lại 2.500.000đ tiền hoa hồng cho bà P. Còn lại là 165.500.000đ. Chị C cung cấp cho Tòa án 03 danh sách hụi viên, theo chị C khai là các danh sách hụi viên này bà P viết, ký tên và giao cho chị cất giữ ngay lúc ban đầu khi mở dây hụi. Còn bị đơn bà P vắng mặt không lý do và bà P cũng không có ý kiến gì về việc vắng mặt của mình và cũng không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị C, mặt dù được Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho bà P Thông báo thụ lý vụ án về yêu cầu khởi kiện đòi tiền nợ hụi của chị C, kết quả công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập hợp lệ đến Tòa để giải quyết vụ án nhiều lần. Như vậy xem như bà P từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị C. Mặt khác tại phiên tòa hôm nay chị C có cung cấp cho Tòa án lời khai của những người cùng tham gia góp hụi chung với chị gồm các ông (bà) Huỳnh Thị L và Nguyễn Thị C. Những người này cùng tham gia góp chung dây hụi với chị C do bà P làm đầu thảo đều xác định là chị C có tham gia góp 03 dây hụi do bà P làm đầu thảo nêu trên và khi ngưng hụi bà P không trả tiền hụi cho tất cả các hụi viên như chị C trình bày là đúng. Nhận thấy lời khai của những người này là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định là bà P có mở và làm đầu thảo nhiều dây hụi, đến ngày 28/9/2019 đã ngưng hụi nhưng không trả tiền cho các hụi viên, hiện nay còn nợ chị C 03 dây hụi (có 5 phần hụi), tổng cộng là 168.000.000đồng, trừ tiền hoa hồng bà P được hưởng là 2.500.000đ. Còn lại là 165.500.000đ là có căn cứ phù hợp các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa hôm nay.

-Xét yêu cầu trả một lần khi án có hiệu lực pháp luật của nguyên đơn chị C.

Nhận thấy theo chị C khai là khi góp hụi hai bên thỏa thuận: Người hụi viên phải góp hụi đầy đủ tiền hụi khi đến kỳ khui hụi và được nhận tiền hụi khi hốt hụi; Người làm đầu thảo phải có trách nhiệm giao đủ tiền cho hụi viên khi hụi viên hốt hụi và được hưởng tiền hoa hồng theo thỏa thuận. Nhưng khi đang thực hiện hợp đồng góp hụi, chị C thực hiện đúng theo thỏa thuận đã cam kết ban đầu, thì bà P tuyên bố ngưng hụi và cũng không giao tiền hụi lại cho chị C. Cho thấy bà P là người có lỗi đã vi phạm nghĩa vụ cao kết ban đầu khi đang thực hiện hợp đồng góp hụi. Nay chị C đòi bà P phải trả lại toàn bộ tiền hụi là có căn cứ và đúng qui định pháp luật nên được chấp nhận. Do đó Hội đồng xét xử cần bà P trả cho chị C 165.500.000đ tiền nợ hụi một lần sau khi án có hiệu lực pháp luật là phù hợp với quy định tại Điều 29 Nghị Định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/12/2019 của Chính Phủ và Điều 471 Bộ luật dân sự.

[3] Về án phí: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị C, nên bị đơn bà P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo qui định pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 3 Điều 26; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39; Khoản 1 Điều 147 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Căn cứ vào Điều 357; 468 và 471 Bộ luật dân sự.

- Căn cứ Nghị Định 19/2019/NĐ-CP, ngày 19/02/2019.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Kim C.

- Buộc bà Phạm Thị P trả cho chị Nguyễn Thị Kim C số tiền nợ 03 dây hụi (có 5 phần hụi) là 165.500.000 đồng (Một trăm sáu mươi lăm triệu, năm trăm nghìn đồng).

Thời gian trả: Trả sau khi án có hiệu lực pháp luật.

- Kể từ ngày chị C có đơn yêu cầu thi hành án nếu bà P chậm thực hiện nghĩa vụ cấp trả nợ thì hàng tháng còn phải chịu thêm tiền lãi chậm trả theo mức lãi suất được quy định tại Điều 357 và khoản 2, Điều 468 Bộ luật dân sự.

2. Về án phí: Bà P phải chịu 8.275.000 đồng (Tám triệu, hai trăm bảy mươi lăm nghìn đồng). Hoàn lại cho chị C số tiền tạm ứng án phí là 4.200.000 đồng (Bốn triệu, hai trăm đồng) theo biên lai số 0000685 ngày 13/5/2021 của Cục thi hành án dân sự huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị C được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn bà P được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật. Để Tòa án nhân dân tỉnh Tền Giang xét xử phúc thẩm lại vụ án.

Trong trường hợp Bản án được thi hành theo Điều 2, Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưởng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 117/2021/DS-ST

Số hiệu:117/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về