Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 87/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN SƠN, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 87/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 27/5/2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Sơn mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 30/2022/TLST-HNGĐ, ngày 23 tháng 02 năm 2022, về việc: Tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 28/4/2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 19/2022/QĐST-HNGĐ ngày 13/5/2022, giữa:

- Nguyên đơn: Chị Âu Thị Đ, sinh năm 1988.

- Bị đơn: Anh Trần Ngọc H , sinh năm 1987.

Cùng địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.

(Chị Đ có đơn xin xét xử vắng mặt, anh H vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Âu Thị Đ trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Trần Ngọc H tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn, khi kết hôn có tổ chức cưới hỏi và đăng ký kết hôn ngày 24/4/2009 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Sau khi kết hôn vợ chồng chị sống chung cùng gia đình nhà anh H. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, hòa thuận bình thường, đến năm 2016 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân dẫn tới mâu thuẫn là do tính tình hai bên không hợp nhau, luôn bất đồng quan điểm, lối sống. Chị và anh H sống ly thân từ năm 2019 đến nay. Nay chị xác định mâu thuẫn vợ chồng không thể hòa giải, không còn tình cảm với nhau nữa, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Ngọc H.

Về con chung: Chị và anh H có 02 con chung là cháu Trần Tố U, sinh ngày 20/7/2010 và cháu Trần Hồng S, sinh ngày 14/8/2014, hiện cháu U và cháu S đang ở với chị, sau khi ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Trần Tố U và cháu Trần Hồng S và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị xác định không có tài sản chung; không vay nợ ai cũng không cho ai vay nợ nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tiến hành gửi giấy triệu tập nhưng anh H không đến Tòa án tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật, Tòa án đã tiến hành đi xác minh, thu thập chứng cứ tại địa phương được biết, hiện anh H có hộ khẩu thường trú tại thôn Trại Xoan, xã H, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang và đang có mặt tại nơi cư trú. Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và các tài liệu khác cho anh H để anh H đến Tòa án giải quyết vụ án, nhưng anh H đều vắng mặt và cũng không nộp cho Tòa án văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, chị Đ có đơn yêu cầu không tiến hành hòa giải. Do vậy, Tòa án không tiến hành phiên hòa giải và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.

Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ thể hiện: Chị Âu Thị Đ và anh Trần Ngọc H là vợ chồng hợp pháp, có đăng ký kết hôn ngày 24/4/2009 tại Ủy ban nhân dân xã Như Hán, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang và được hai bên gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn vợ chồng chị Đ, anh H về chung sống với gia đình anh H một thời gian sau đó ra ở riêng tại thôn Trại Xoan, xã H, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, hoà thuận bình thường, đến năm 2019 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do luôn bất đồng quan điểm sống, quan điểm làm ăn, kinh tế, vợ chồng chị Đ, anh H sống ly thân từ năm 2019 đến nay, hiện không còn tồn tại một gia đình, hạnh phúc, tiến bộ, mục đích hôn nhân không đạt được. Về con chung, vợ chồng chị Đ, anh H có 02 con chung là cháu Trần Tố U, sinh ngày 20/7/2010 và cháu Trần Hồng S, sinh ngày 14/8/2014, hiện cháu U và cháu S đang ở với chị Đ. Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng chị Đ, anh H thôn không nắm được. Về hộ khẩu thường trú, chị Đ, anh H đều có hộ khẩu thường trú tại thôn Trại Xoan, xã H, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Hiện nay cả chị Đ, anh đều có mặt tại địa phuơng, trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, Tòa án đã nhờ thôn tống đạt các tài liệu cho anh Trần Ngọc H, thôn đã giao trực tiếp cho anh H, anh H nhận được và biết được tất cả các tài liệu của Tòa án nhưng không có ý kiến gì. Về thu nhập bình quân của chị Đ và anh H, chị Đ là giáo viên hưởng lương từ ngân sách Nhà nước nên thôn không nắm được, còn thu nhập của anh H khoảng 150.000 đồng đến 200.000 đồng/ngày.

Chị Đ có đơn xin xét xử vắng mặt, chị vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và ý kiến như đã trình bày, về quan hệ hôn nhân, chị đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho chị được ly hôn với anh Trần Ngọc H. Về con chung, chị và anh H có 02 con chung, là cháu Trần Tố U, sinh ngày 20/7/2010 và cháu Trần Hồng S, sinh ngày 14/8/2014, hiện cháu U và cháu S đang ở với chị, sau khi ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Trần Tố U và cháu Trần Hồng S và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, nợ chung, chị xác định không có tài sản chung, không vay nợ ai cũng không cho ai vay nợ nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đều đảm bảo đúng quy định. Về việc giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 235, 238, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Điều 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Đề nghị Hội đồng xét xử, xử cho chị Âu Thị Đ được ly hôn với anh Trần Ngọc H. Về con chung, giao cháu Trần Tố U, sinh ngày 20/7/2010 và cháu Trần Hồng S, sinh ngày 14/8/2014 cho chị Âu Thị Đ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở. Về tài sản chung, nợ chung, chị Đ xác định không có nên không đề nghị xem xét giải quyết. Về án phí, chị Âu Thị Đ phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp giữa nguyên đơn chị Âu Thị Đ và anh Trần Ngọc H là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn là anh Trần Ngọc H có hộ khẩu thường trú tại thôn Trại Xoan, xã H, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang nên chị Âu Thị Đ khởi kiện xin ly hôn với anh H là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Quá trình xác minh, thu thập chứng cứ với chính quyền địa phương được biết, anh H có hộ khẩu thường trú và thường xuyên sinh sống tại thôn Trại Xoan, xã H, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Địa phương cho biết, anh H có biết việc chị Đ đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn và nhận được tất cả các tài liệu của Tòa án. Tuy nhiên, anh H không đến Toà án giải quyết vụ án, tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải anh H vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không nộp các văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và các chứng cứ kèm theo. Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh Trần Ngọc H theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Âu Thị Đ và anh Trần Ngọc H đăng ký kết hôn vào ngày 24/4/2009 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, trên cơ sở tự do tìm hiểu và được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo tập quán địa phương, như vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chị Đ, anh H về chung sống với gia đình anh H một thời gian sau đó ra ở riêng tại thôn Trại Xoan, xã H, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, hoà thuận bình thường, đến năm 2019 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do luôn bất đồng quan điểm sống, quan điểm làm ăn, kinh tế, vợ chồng chị Đ, anh H sống ly thân từ năm 2019 đến nay, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không còn yêu thương, quý trọng nhau nữa nên không còn tồn tại một gia đình hạnh phúc, tiến bộ. Như vậy, xét quan hệ hôn nhân giữa chị Đ và anh H Hội đồng xét xử thấy rằng, mâu thuẫn vợ chồng chị Đ, anh H đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu xin ly hôn của chị Đ là có căn cứ, vì vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Đ. Xử cho chị Âu Thị Đ được ly hôn với anh Trần Ngọc H là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị Âu Thị Đ và anh Trần Ngọc H có 02 con chung là cháu Trần Tố U, sinh ngày 20/7/2010 và cháu Trần Hồng S, sinh ngày 14/8/2014, hiện cháu U và cháu S đang ở với chị Đ. Xét về điều kiện, hoàn cảnh để giao con chung, Hội đồng xét xử thấy rằng, trong quá trình giải quyết vụ án nguyênyện vọng của cháu Trần Tố U và cháu Trần Hồng S là được ở với mẹ và hiện hai cháu đang ở với chị Đ. Chị Đ là giáo viên Trường Mầm non H, có thu nhập ổn định, được hưởng lương từ ngân sách Nhà Nước, thu nhập mỗi tháng là 6.242.653 đồng. Trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, chị Đ yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả cháu U và cháu S. Trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đang làm ăn, sinh sống tại địa phương, anh H đã nhận được, biết được yêu cầu của chị Đ và các tài liệu của Tòa án nhưng anh H không đến Tòa án tham gia tố tụng và cũng không có ý kiến gì về yêu cầu của chị Đ. Từ các nhận định như trên, để đảm bảo về sự phát triển toàn diện của đứa trẻ, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu Trần Tố U, sinh ngày 20/7/2010 và cháu Trần Hồng S, sinh ngày 14/8/2014 cho chị Âu Thị Đ trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp. Về cấp dưỡng nuôi con chung, chị Đ không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung nên anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Đ xác định không có, không đề nghị giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Nguyên đơn phải nộp án phí theo theo quy định tại điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị đơn không phải chịu án phí.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 235, 238, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Âu Thị Đ được ly hôn với anh Trần Ngọc H.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Tố U, sinh ngày 20/7/2010 và cháu Trần Hồng S, sinh ngày 14/8/2014 cho chị Âu Thị Đ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Trần Ngọc H không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Âu Thị Đ phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0003936, ngày 23 tháng 02 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, chị Đ đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Âu Thị Đ và anh Trần Ngọc H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 87/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:87/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Sơn - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về