Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 81/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HÒA, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 81/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/12/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 31 tháng 12 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 280/2021/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 11 năm 2021 về việc tranh chấp “Hôn nhân và gia đình”; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2021/QĐST- HNGĐ ngày 13/12/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1988 – có mặt

Địa chỉ: xóm TT, thôn DT1, xã DT, huyện hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.

Bị đơn: Anh Lê Đức T, sinh năm 1984 – có mặt

Địa chỉ: tổ dân phố Đ, thị trấn T, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và những lời khai trong quá trình giải quyết nguyên đơn chị Nguyễn Thị D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị với anh Lê Đức T kết hôn với nhau năm 2006, sau đó vì chậm có con chung và mâu thuẫn gia đình nên hai vợ chồng có ly hôn năm 2010. Sau đó hai vợ chồng lại quay lại với nhau và đăng ký kết hôn tại UBND xã ĐT vào ngày 12/8/2012. Trước khi kết hôn anh chị có được tự do tìm hiểu, tự nguyện đi đến hôn nhân, không bị ai ép buộc. Vợ chồng có tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương. Cưới xong chị về nhà anh T làm dâu ngay và chung sống với bố mẹ chồng. Cuộc sống vợ chồng ban đầu hạnh phúc, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn với chồng và bố mẹ chồng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm về việc làm ăn kính tế. Đến khoảng tháng 7 năm 2020 do vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng nên chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sống từ đó đến nay. Sau đó anh T có nên khuyên ngăn, hòa giải nói chuyện và đón chị về sống chung nhưng chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị không về chung sống với anh T. Việc mâu thuẫn vợ chồng đều đã được hai bên gia đình khuyên ngăn hòa giải nhưng không có kết quả. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được chị đề nghị Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lê Đức T.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là cháu Lê Bảo T1, sinh ngày 11/7/2012, cháu thứ hai là Lê Đức T2, sinh ngày 22/12/2014. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi cháu T1. Về cấp dưỡng nuôi con chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, công nợ chung vợ chồng: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Lê Đức T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị D quen biết nhau rồi đi đến hôn nhân. Anh chị có đi đăng ký kết hôn tại UBND xã ĐT vào 12/4/2006. Vợ chồng có tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương. Cưới xong chị D về nhà anh làm dâu ngay. Vợ chồng sống chung với bố mẹ đẻ anh. Đến khoảng năm 2010 do mâu thuẫn vợ chồng và không có con chung nên hai vợ chồng đã ly hôn, đến năm 2012 anh chị kết hôn lại. Anh chị đăng ký kết hôn lại vào ngày 14/8/2012 tại UBND xã ĐT. Tháng 7/2020 do mâu thuẫn vợ chồng nên chị D đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở từ đó đến nay. Anh có điện thoại cho chị D để động viên vợ chồng về đoàn tụ nhưng chị D không về sống chung với anh để xây dựng cuộc sống vợ chồng. Việc mâu thuẫn vợ chồng giữa hai vợ chồng đã được gia đình hai bên khuyên ngăn hòa giải nhưng không có kết quả. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được chị D xin ly hôn anh đồng ý.

* Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là cháu Lê Bảo T1, sinh ngày 11/7/2012, cháu thứ hai là Lê Đức T2, sinh ngày 22/12/2014. Khi ly hôn anh yêu cầu được nuôi cả hai con chung vì hai con chung đều có nguyện vọng ở với anh và không yêu cầu chị D phải góp cấp dưỡng nuôi con chung Về tài sản chung, công nợ chung vợ chồng: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị D trình bày: Chị đăng ký kết hôn lần 1 với anh T vào năm 2006. Đến năm 2010 thì ly hôn do mâu thuẫn vợ chồng. Đến năm 2012 thì hai vợ chồng đăng ký kết hôn lại. Trong quá trình sống thì có mâu thuẫn trong gia đình giữa vợ chồng và với gia đình chồng. Đến tháng 7/2020 do mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng nên chị bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở từ đó đến nay. Anh T có lên đón và gọi điện, nhắn tin cho chị để vợ chồng về đoàn tụ nhưng chị không đồng ý. Nay chị vẫn yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung, khi ly hôn chị đề nghị được nuôi cháu Lê Bảo T1. Hiện nay, chị chưa có nhà riêng nhưng chị làm buôn bán bất động sản thu nhập một tháng của chị thấp là 80 triệu, cao là 200 triệu nên đảm bảo khả năng nuôi con chung. Về cấp dưỡng con chung chị không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản chung, công nợ chung: Không có, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị xin chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

Bị đơn anh Lê Đức T trình bày: Về điều kiện kết hôn, mâu thuẫn vợ chồng như chị D trình bày là đúng. Anh đã lên nhà bố mẹ đẻ chị D, gọi điện, nhắn tin để chị D về đoàn tụ với anh nhưng không có kết quả. Nay chị D xin ly hôn anh Đồng ý.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung, khi ly hôn anh xin được nuôi cả hai con chung vì các cháu có nguyện vọng được ở với bố. Anh không yêu cầu chị D phải góp cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ chung: Không có, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án.

- Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 55; Điều 57; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình. Điều 147; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị D và anh Lê Đức T

2. Về con chung: Giao cháu Lê Bảo T1, sinh ngày 11/7/2012 cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu thứ hai là Lê Đức T2, sinh ngày 22/12/20143 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Ngày 17 tháng 11 năm 2021, Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa thụ lý vụ án theo đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị D với anh Lê Đức T có nơi cư trú tại thị trấn T, huyện Hiệp Hòa là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự;

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của chị D, HĐXX thấy:

Chị Nguyễn Thị D với anh Lê Đức T kết hôn ngày 14/8/2012, có đăng ký tại UBND xã ĐT (nay là thị trấn T). Trước khi kết hôn anh T chị D có được tự do tìm hiểu, tự nguyên đi đến hôn nhân không bị ai ép buộc, không vi phạm các điều cấm cấm kết hôn, là hôn nhân hợp pháp (Theo Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình) được pháp luật bảo vệ. Theo lời trình bày của chị D, anh T và các tài liệu có trong hồ sơ xác định được trong quá trình chung sống, chị D, anh T có phát sinh mâu thuẫn do hai bên không thống nhất được việc làm ăn dẫn đến tình cảm vợ chồng dạn nứt. Vợ chồng đã ly hôn năm 2010 sau đó kết hôn lại vào năm 2012. Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nên chị D đã về nhà bố mẹ đẻ ở xã DT sinh sống từ tháng 7/2020 đến nay. Từ khi chị D về nhà bố mẹ đẻ ở anh T có lên nói chuyện đón chị D về để sống chung nhưng chị D không về. Việc mâu thuẫn vợ chồng của chị D, anh T đã được hai bên gia đình khuyên ngăn hòa giải thể hiện ở lời khai của các đương sự, lời khai của ông Nguyễn Văn Từng là bố đẻ chị D nhưng không có kết quả. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân của chị D, anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị D xin ly hôn anh T cũng đồng ý nên cần công nhận thuận tình ly hôn giữa chị D anh T anh Tùng là phù hợp với quy định tại Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là cháu Lê Bảo T1, sinh ngày 11/7/2012, cháu thứ hai là Lê Đức T2, sinh ngày 22/12/2014. Anh T có nguyện vọng được nuôi cả hai con chung, chị D có nguyện vọng được nuôi cháu T1, Hội đồng xét xử thấy: Xét về điều kiện nuôi con chung thì cả chị D anh T đều đủ khả năng đảm bảo việc nuôi con chung. Mặc dù cả cháu T1, cháu T2 đều có nguyện vọng được ở với anh T nhưng để đảm bảo quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng con chung của chị D cũng như đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng con được tốt nhất cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị D giao cháu Lê Bảo T1 cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Lê Đức T2 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Các đương sự xác định không có và không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Vì các đương sự thuận tình ly hôn nên phải chịu 50% án phí dân sự sơ thẩm. Chị D xin chịu toàn bộ án phí nên chị D phải chịu 150.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 55; Điều 57; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình. Khoản 1 Điều 26; Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị D và anh Lê Đức T

[2] Về con chung: Giao cháu Lê Bảo T1, sinh ngày 11/7/2012 cho chị Nguyễn Thị D trực tiếp nuôi dưỡng, Giao cháu là Lê Đức T2, sinh ngày 22/12/2014 cho anh Lê Đức T trực tiếp nuôi dưỡng.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con sau khi ly hôn không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

[3] Về án phí: Chị Nguyễn Thị D phải chịu 150.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Nhưng được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0007686 ngày 17/11/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Hoàn trả chị Nguyễn Thị D 150.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 81/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:81/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về