Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 40/2022/HNGĐ-ST

TAND HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 40/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 17/6/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 106/2022/TLST-HNGĐ ngày 13/4/2022 về việc tranh chấp Hôn nhân gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2022/QĐST-HNGĐ ngày 30/5/2022 giữa:

* Nguyên đơn: Chị Hà Thị Ch, sinh năm 1994 (vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: thôn Cầu Trong, xã Mỹ Thái, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang

* Bị đơn: Anh Hà Văn Th, sinh năm 1989 (vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: thôn Cầu Trong, xã Mỹ Thái, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Hà Thị Ch trình bày: Chị tự nguyện kết hôn với anh Hà Văn Th vào ngày 20/12/2013, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Mỹ Thái. Trong quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc. Sau một thời gian chung sống thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống; vợ chồng thường xuyên đánh, cãi chửi nhau. Đến đầu năm 2022 vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng nên chị đã về nhà bố mẹ đẻ để ở cho đến nay; vợ chồng sống ly thân, không quan tâm, chăm sóc gì cho nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin được ly hôn với anh Hà Văn Th.

Về con chung: vợ chồng chị có 02 con chung là Hà Minh T, sinh ngày 06/9/2014 và Hà Tuấn Thh, sinh ngày 14/6/2017. Hiện nay cháu T đang ở cùng chị, còn cháu Thh đang ở cùng anh Th; các cháu khỏe mạnh và phát triển bình thường. Ly hôn chị xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hà Minh T. Đồng ý để anh Th trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hà Tuấn Thh.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Hiện nay chị đang làm nhân viên tại Viện thẩm mỹ Bắc Giang thu nhập bình quân là 9.000.000đ/ tháng, thời gian làm việc cố định nên có đủ điều kiện để nuôi dưỡng con chung.

Về tài sản chung; nghĩa vụ chung về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai và các lời khai tiếp theo, bị đơn là anh Hà Văn Th trình bày:

Anh xác nhận thời gian kết hôn, đăng ký kết hôn, quá trình chung sống và mâu thuẫn vợ chồng như chị Ch trình bày là đúng. Nhưng vì các con còn nhỏ nên anh muốn vợ chồng về đoàn tụ cùng nhau nuôi dạy con chung. Vì vậy, anh không đồng ý ly hôn với chị Ch.

Về con chung: Vợ chồng anh có 02 con chung như chị Ch trình bày là đúng.

Trường hợp nếu phải ly hôn thì anh xin được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hiện nay anh làm nghề cơ khí, thu nhập bình quân là 12.000.000đ/ tháng.

Về tài sản chung; nghĩa vụ chung về tài sản: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Th đều vắng mặt và có đơn xin vắng mặt nên các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

Tại phiên tòa: Nguyên đơn là chị Hà Thị Ch; bị đơn là anh Hà Văn Th đều vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang tham gia phiên tòa:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký trong quá trình giải quyết vụ án và của Hội đồng xét xử tại phiên tòa đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án đều thực hiện nghiêm túc, đúng theo quy định của pháp luật.

- Nội dung giải quyết vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Hà Thị Ch được ly hôn anh Hà Văn Th.

Về con chung: Giao cho chị Hà Thị Ch trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Hà Minh T, sinh ngày 06/9/2014. Giao cho anh Hà Văn Th trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Hà Tuấn Thh, sinh ngày 14/6/2017.

Về án phí: Chị Ch phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Đơn khởi kiện của chị Hà Thị Ch cùng các tài liệu nộp kèm theo đơn là hợp lệ, đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình. Bị đơn có nơi cư trú trên địa bàn huyện Lạng Giang. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang đã thụ lý, giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục tố tụng dân sự pháp luật đã quy định. Tại phiên tòa nguyên đơn là chị Ch; bị đơn là anh Th đều vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy HĐXX tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị Ch, anh Th theo quy định tại Điều 227; Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hà Thị Ch và anh Hà Văn Th có đăng ký kết hôn vào ngày 20/12/2013 tại UBND xã Mỹ Thái, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Việc kết hôn trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu, phù hợp với quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Do đó quan hệ hôn nhân giữa chị Ch, anh Th là hợp pháp.

Về tình trạng hôn nhân, Hội đồng xét xử xét thấy rằng: Lời khai của chị Ch, anh Th đều xác định vợ chồng có sảy ra nhiều mâu thuẫn đánh, cãi chửi nhau và ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống và không tìm được tiếng nói chung. Vợ chồng đã có khoảng thời gian sống ly thân và không còn quan tâm, chăm sóc cho nhau.

Đối với yêu cầu xin ly hôn của chị Ch và ý kiến của anh Th không đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy rằng, trong thời gian sống chung vợ chồng không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ về nhân thân, không thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ mọi việc, không giữ gìn, bảo vệ hạnh phúc gia đình. Chị Ch, anh Th đã mâu thuẫn trầm trọng dẫn đến vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2022 đến nay không quan tâm, chăm sóc gì cho nhau. Việc này trái với các quy định tại các điều 19, 21 luật Hôn nhân gia đình năm 2014. Từ những phân tích trên, căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và Điều 8 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về căn cứ cho ly hôn thì thấy rằng: Tình trạng của vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Ch đối với anh Th.

[4] Về con chung: Vợ chồng chị Ch, anh Th có 02 con chung là Hà Minh T, sinh ngày 06/9/2014 và Hà Tuấn Thh, sinh ngày 14/6/2017. Ly hôn chị Ch xin được nuôi dưỡng cháu T; đồng ý để anh Th nuôi dưỡng cháu Thh. Anh Th xin được nuôi cả hai con chung.

Xét về điều kiện nuôi dưỡng con chung: Cả chị Ch, anh Th hiện nay đều có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên đều có đủ điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc cho con chung. Đối với cháu T hiện nay đã trên 07 tuổi, đang ở cùng chị Ch và có ý kiến xin được ở với chị Ch. Hơn nữa, để đảm bảo cho các con phát triển tốt về mọi mặt; đảm bảo về phát triển kinh tế của người nuôi dưỡng. Vì vậy, cần giao con chung theo ý kiến của chị Ch là phù hợp theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Ch, anh Th không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Chị Ch, anh Th có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở chị Ch, anh Th thực hiện quyền này.

Chị Ch, anh Th có quyền làm đơn đề nghị giải quyết vụ án thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

[5] Về tài sản chung; nghĩa vụ chung về tài sản: Chị Ch, anh Th không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Ch phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51, Điều 53, Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 28, Điều 35, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, nộp tiền án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Hà Thị Ch được ly hôn anh Hà Văn Th.

2. Về con chung: Giao cho chị Hà Thị Ch trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Hà Minh T, sinh ngày 06/9/2014. Giao cho anh Hà Văn Th trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Hà Tuấn Thh, sinh ngày 14/6/2017.

Sau khi ly hôn chị Ch, anh Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở chị Ch, anh Th thực hiện quyền này.

Chị Ch, anh Th có quyền làm đơn đề nghị giải quyết vụ án thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung; nghĩa vụ chung về tài sản: Chị Ch, anh Th không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Hà Thị Ch phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí chị Ch đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0012787 ngày 12/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Xác nhận chị Ch đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Án xử công khai sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

123
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 40/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:40/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về