Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 21/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 21/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 12 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình sơ thẩm thụ lý số 28/2022/TLST-HNGĐ, ngày 01 tháng 3 năm 2022, về việc: “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình”, Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Kim Y, sinh năm 1992 ĐKHKTT: Thôn T, xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Bình Chỗ ở hiện nay: Thôn L, xã Th, huyện T, tỉnh Thái Bình

- Bị đơn: Anh Đặng Tất V, sinh năm 1992 ĐKHKTT: Thôn T, xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Bình. Hiện đang chấp hành án tại: Đội 9, phân trại K1, trại giam N Địa chỉ: Xã N, huyện H, tỉnh N (Tại phiên tòa vắng mặt chị Y, anh V. Chị Y, anh V có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và biên bản hòa giải nguyên đơn chị Vũ Thị Kim Y trình bày: Chị và anh Đặng Tất V kết hôn do tự nguyện vào ngày 04/12/2013 có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã P, huyện Đ, tỉnh Thái 1 Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung, năm 2019 anh V phạm tội cướp giật tài sản phải đi chấp hành án phạt tù.Từ năm 2019 chị về nhà bố mẹ đẻ chị ở xã Th, huyện T sinh sống. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn chị xin được ly hôn anh Đặng Tất V.

Về con chung: Chị và anh Đặng Tất V có 01 con chung là Đặng Tất Bình A, sinh ngày 21/4/2014. Ly hôn, chị xin được nuôi con chung và không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con cùng chị. Hiện con đang ở cùng với chị.

Về tài sản: Chị và anh V không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Đặng Tất V khai: Anh và chị Vũ Thị Kim Y kết hôn do tự nguyện vào ngày 04/12/2013 có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung. Tháng 11/2019 anh bị bắt về tội cướp giật tài sản nên tình cảm vợ chồng không còn.

Về con chung: Anh và chị Vũ Thị Kim Y có 01 con chung là Đặng Tất Bình A, sinh ngày 21/4/2014. Sau khi chấp hành xong án phạt tù anh xin được nuôi con.

Về tài sản: Vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa :

- Nguyên đơn chị Vũ Thị Kim Y vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn anh Đặng Tất V vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn - chị Vũ Thị Kim Y, bị đơn - anh Đặng Tất V đã chấp hành đúng quy định của pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án.

Về nội dung: Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị Kim Y: Xử cho chị Y được ly hôn anh Đặng Tất V. Về con chung: Đề nghị xử giao con chung Đặng Tất Bình A, sinh ngày 21/4/2014 cho chị Vũ Thị Kim Y được trực tiếp nuôi dưỡng. Về tài sản chung, chị Y và anh V thống nhất không có tài sản chung, không có nợ chung nên Tòa án không giải quyết về tài sản. Chị Y phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, xét thấy:

[1] Về tố tụng: Anh Đặng Tất V có hộ khẩu thường trú tại xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Bình, căn cứ vào khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình giải quyết vụ án là đúng pháp luật. Nguyên đơn - chị Vũ Thị Kim Y và bị đơn - anh Đặng Tất V có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt đối với chị Vũ Thị Kim Y và anh Đặng Tất V.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Y kết hôn với anh V ngày 04/12/2013 có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Bình là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung, tháng 11/2019 anh V bị bắt về tội cướp giật tài sản. Chị Y xin ly hôn, anh V xác định tình cảm vợ chồng không còn. Qua xác minh tại Ủy ban nhân dân xã P thì chị Y và anh V kết hôn ngày 04/12/2013. Chị Y xin ly hôn anh V đề nghị Tòa án giải quyết cho chị Y ly hôn anh V. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Y và anh V đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Y xử cho chị Y được ly hôn anh V là phù hợp.

[2.2] Về con chung: Chị Y và anh V có 01 con chung là Đặng Tất Bình A, sinh ngày 21/4/2014. Ly hôn, chị Y có nguyện vọng được nuôi con, anh V có ý kiến là sau khi anh chấp hành xong án phạt tù anh xin được nuôi con. Ủy ban nhân dân xã P đề nghị Tòa án giao con cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, cháu Đặng Tất Bình A có nguyện vọng được ở với mẹ, vì vậy cần giao con chung Đặng Tất Bình A cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Về nghĩa vụ cấp dưỡng, chị Y không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị cần chấp nhận. Việc thay đổi người nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con được đặt ra khi một trong các bên có đơn yêu cầu. Anh Đặng Tất V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[2.3] Về tài sản chung: Chị Y và anh V thống nhất không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3]Về án phí: Chị Y phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[4] Về quyền kháng cáo: Chị Y và anh V có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 266; Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56; Điều 58; Điều 69; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị Kim Y được ly hôn anh Đặng Tất V.

2. Về con chung: Xử giao con chung Đặng Tất Bình A, sinh ngày 21/4/2014 cho chị Vũ Thị Kim Y trực tiếp nuôi dưỡng. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Y không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị, việc thay đổi người nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con được đặt ra khi một trong các bên có đơn yêu cầu. Anh Đặng Tất V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Tòa án không giải quyết về tài sản.

4. Về án phí: Chị Vũ Thị Kim Y phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 đồng chị Y đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí số 0002996 ngày 01/3/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hưng thành tiền án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị Kim Y và anh Đặng Tất V có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 21/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:21/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về