Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 145/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM YÊN, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 145/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Ngày 13 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 34/2022/TLST- HNGĐ, ngày 23/02/2022 về việc: Tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 09/5/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 24/2022/QĐST-HNGĐ ngày 26/5/2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Trần Văn T, sinh năm 1992.

Địa chỉ: Thôn H, xã C, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.

2. Bị đơn: Chị Nịnh Thị B, sinh năm 1996.

Địa chỉ: Thôn H, xã C, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.

(Ngun đơn anh Trần Văn Tcó đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt; bị đơn chị Nịnh Thị B vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo nội dung Đơn khởi kiện, Bản tự khai và Đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt nguyên đơn anh Trần Văn T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Nịnh Thị B kết hôn từ năm 2016. Trước khi kết hôn hai bên được tự tìm hiểu, không bị ai cưỡng ép hay lừa dối kết hôn, được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương và đăng ký kết hôn tại UBND xã C, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang vào ngày 22/4/2016. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống tại thôn 8 (nay là thôn H), xã C, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Cuộc sống chung của hai vợ chồng chỉ hạnh phúc được một thời gian ngắn, sau đó dần phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng về quan điểm sống, tính tình không hợp nhau dẫn đến việc vợ chồng thường xuyên cãi vã, mắng chửi nhau. Mặc dù đã được hai bên gia đình và bạn bè khuyên can nhưng hai vợ chồng vẫn không thể tìm được tiếng nói chung mà ngày càng mâu thuẫn gay gắt, đến đầu năm 2018 chị Bản tự ý bỏ đi làm ăn xa, thỉnh thoảng mới về thăm nhà một vài ngày rồi lại đi, liên lạc chủ yếu với gia đình qua điện thoại. Hai vợ chồng đã sống ly thân từ đầu năm 2018 cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân hai vợ chồng không hề có sự hỏi han, quan tâm chăm sóc gì đến nhau khiến cho tình cảm vợ chồng ngày càng xa cách, thực tế thì hiện tại cả hai đều đã có cuộc sống riêng, không còn ràng buộc gì đến nhau. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng với chị Nịnh Thị B đã hết, mục đích hôn nhân không đạt được nên vợ chồng không thể đoàn tụ để tiếp tục duy trì đời sống chung cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc tiến bộ, nuôi dạy con cái trưởng thành và phát triển kinh tế gia đình được nữa. Do đó anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nịnh Thị B để giải phóng cho hai người đi tìm cuộc sống mới hạnh phúc của riêng mình.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng anh có 01 con chung là cháu Trần Thị Ngọc L, sinh ngày 18/02/2016. Kể từ khi chị B bỏ đi làm ăn và vợ chồng sống ly thân thì cháu L vẫn sống cùng anh nên khi ly hôn anh xin được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Liễu đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu chị B phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

Về tài sản, đất đai, vay nợ chung: Quá trình chung sống vợ chồng anh không có tài sản, đất đai chung; không vay nợ của ai, cũng không cho ai vay nợ nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt và niêm yết hợ p lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, nhưng bị đơn chị Nịnh Thị B không có mặt tại Tòa án để tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và không có ý kiến gì đối với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Trần Văn T.

Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ tại địa phương và người thân thích của bị đơn chị Nịnh Thị B, nội dung thể hiện:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Văn T và chị Nịnh Thị B kết hôn với nhau từ năm 2016 trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương, đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sau khi cưới vợ chồng anh T, chị B về chung sống tại thôn H, xã C, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Cuộc sống chung của hai vợ chồng ban đầu hạnh phúc, nhưng sau đó dần phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng về quan điểm sống, thường xuyên cãi chửi nhau. Chị B đã bỏ đi làm ăn xa, thỉnh thoảng mới về nhà và sống ly thân với anh T từ năm 2018 cho đến nay. Do đó tình trạng hôn nhân giữa anh T và chị B không còn tồn tại trên thực tế, không còn tồn tại một gia đình hạnh phúc, tiến bộ, mục đích hôn nhân không đạt được nên chính quyền địa phương và gia đình đề nghị Tòa án giải quyết việc ly hôn giữa anh T và chị B theo quy định của pháp luật. Quá trình Tòa án giải quyết vụ án chính quyền địa phương đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án sau đó chuyển lại cho người thân trong gia đình, gia đình cũng đã thông báo lại cho chị B biết về việc anh T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị B và Tòa án triệu tập chị B đến làm việc, tuy nhiên chị B báo lại là đang đi làm ăn xa không về, nhưng không thông báo cho gia đình và địa phương biết chị B đang làm gì, ở địa chỉ cụ thể như thế nào.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng anh T, chị B có 01 con chung là cháu Trần Thị Ngọc L, sinh ngày 18/02/2016. Kể từ khi chị B bỏ đi làm ăn xa thì cháu L vẫn sống cùng anh T.

Về tài sản, đất đai và vay nợ chung: Vợ chồng anh Trần Văn T, chị Nịnh Thị B không có tài sản, đất đai, vay nợ chung.

Về hộ khẩu thường trú: Hiện tại cả hai vợ chồng anh Trần Văn T và chị Nịnh Thị B vẫn có hộ khẩu thường trú tại thôn H, xã C, huyện Y. Mặc dù chị B đi làm ăn xa nhưng thỉnh thoảng vẫn về nhà thăm con và thường xuyên liên lạc với những người thân trong gia đình. Người thân trong gia đình đã thông báo cho chị B biết việc anh Trần Văn T khởi kiện xin ly hôn với chị B nhưng chị B không đến Tòa án để giải quyết vụ việc. Hiện tại chị B làm gì và ở địa chỉ cụ thể như thế nào thì gia đình và địa phương không nắm được.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Yên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán thực hiện đúng quy định của Điều 26, 48 Bộ luật Tố tụng dân sự, xác định đúng quan hệ tranh chấp, tư cách của người tham gia tố tụng; tiến hành xác minh, tống đạt các văn bản cho đương sự, gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát đúng thời hạn quy định. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng trình tự, thủ tục được quy định tại chương XIV của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn anh Trần Văn T thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ theo quy định của các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chị Nịnh Thị B chưa thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Trần Văn T:

+ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Trần Văn T được ly hôn với chị Nịnh Thị B.

+ Về con chung: Giao con chung là cháu Trần Thị Ngọc L, sinh ngày 18/02/2016 cho anh Trần Văn T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Nịnh Thị B không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn.

+ Về tài sản, đất đai, vay nợ chung: Qua lời khai của nguyên đơn và qua xác minh tại địa phương thể hiện vợ chồng anh T, chị B không có tài sản, đất đai, vay nợ chung, do nguyên đơn không đề nghị giải quyết nên đề nghị HĐXX không xem xét.

+ Về án phí: Nguyên đơn anh Trần Văn T phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Ngoài ra, Kiểm sát viên còn đề nghị HĐXX tuyên quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và các chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về việc áp dụng pháp luật tố tụng dân sự:

Anh Trần Văn T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị Nịnh Thị B, do đó quan hệ pháp luật trong vụ án này được xác định là “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chị Nịnh Thị B có hộ khẩu thường trú và sinh sống tại thôn H, xã C, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Tuyên Quang theo quy định tại các Điều 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ, xác minh tại gia đình và địa phương cho thấy bị đơn chị Nịnh Thị B có hộ khẩu thường trú tại thôn H, xã C, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Như vậy nguyên đơn anh Trần Văn Tđã cung cấp chính xác địa chỉ của bị đơn chị Nịnh Thị B. Chị B đi làm ăn xa nhưng không thông báo tạm trú, tạm vắng cho chính quyền địa phương biết, thỉnh thoảng vẫn về nhà và thường xuyên liên lạc với gia đình nhưng không thông báo địa chỉ mới nên gia đình và địa phương không rõ chị B hiện đang làm gì, ở đâu. Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các tài liệu tố tụng Thông báo về việc thụ lý vụ án; các Giấy triệu tập; Thông báo về việc mở phiên họp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của pháp luật, mặc dù chị B đã biết được việc anh T khởi kiện xin ly hôn với mình, nhưng chị B không có mặt tại Tòa án để tham gia tố tụng, không có ý kiến đối với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Sau khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án tiến hành triệu tập hợp lệ chị B đến tham gia phiên tòa niêm yết công khai 02 lần nhưng bị đơn vẫn cố tình vắng mặt không có lý do chính đáng, như vậy đây được xem là trường hợp bị đơn cố tình che dấu địa chỉ, cố tình vắng mặt nhằm trốn tránh nghĩa vụ của mình. Quá trình xét xử vụ án, nguyên đơn anh Trần Văn T có đơn xin xét xử vắng mặt do vậy Tòa án tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng đối với bị đơn và xét xử vụ án vắng mặt cả nguyên đơn và bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 179, khoản 2 Điều 227 và các Điều 228, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về việc chấp hành pháp luật và thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự:

Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Trần Văn T thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn chị Nịnh Thị B chưa thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

[3] Về nội dung vụ án:

* Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Văn T và chị Nịnh Thị B kết hôn với nhau từ năm 2016 trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương, đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sau khi cưới vợ chồng anh T, chị B về chung sống tại thôn H, xã C, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Cuộc sống chung của hai vợ chồng ban đầu hạnh phúc, nhưng sau đó dần phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng về quan điểm sống, thường xuyên cãi chửi nhau. Chị B đã bỏ đi làm ăn xa, thỉnh thoảng mới về nhà và sống ly thân với anh T từ năm 2018 cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân hai vợ chồng không hề có sự hỏi han, quan tâm, chăm sóc gì đến nhau. Do đó Hội đồng xét xử thấy rằng mâu thuẫn vợ chồng giữa anh T và chị B đã đến mức độ trầm trọng, không còn tồn tại một gia đình hạnh phúc, tiến bộ, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho anh Trần Văn T được ly hôn với chị Nịnh Thị B là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

* Về con chung: Quá trình chung sống anh Trần Văn T và chị Nịnh Thị B có 01 con chung là cháu Trần Thị Ngọc L, sinh ngày 18/02/2016. Kể từ khi vợ chồng sống ly thân thì cháu L vẫn sống cùng anh T. Quá trình giải quyết vụ án anh T đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Thị Ngọc L và không yêu cầu chị B phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh. Ngoài ra, hiện tại chị B cũng đang đi làm ăn xa, không có địa chỉ liên lạc cụ thể. Do đó, để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con chưa thành niên, HĐXX thấy rằng cần giao con chung là cháu Trần Thị Ngọc L cho anh Trần Văn T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Nịnh Thị B không phải thực hiện nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn theo quy định tại Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

* Về tài sản, đất đai, vay nợ chung: Qua kết quả xác minh và lời khai của nguyên đơn thể hiện vợ chồng anh Trần Văn T và chị Nịnh Thị B không có tài sản, đất đai, vay nợ chung. Quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Trần Văn T cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí và quyền kháng cáo bản án:

Nguyên đơn anh Trần Văn Tphải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị đơn chị Nịnh Thị B không phải nộp án phí. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 179, 227, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Trần Văn Tuyên.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Trần Văn T được ly hôn với chị Nịnh Thị B.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Thị Ngọc L, sinh ngày 18/02/2016 cho anh Trần Văn T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Nịnh Thị B không phải thực hiện nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn.

3. Về án phí: Nguyên đơn anh Trần Văn T phải nộp 300.000đ Ba trăm nghìn đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ Ba trăm nghìn đồng theo Biên lai số 0004656, ngày 23 tháng 02 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang. Anh Trần Văn T đã nộp đủ tiền án phí.

Bị đơn chị Nịnh Thị B không phải nộp án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn anh Trần Văn T và bị đơn chị Nịnh Thị B được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 145/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:145/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về