Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 06/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 06/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/02/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 28 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 186/2021/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 11 năm 2021 về việc tranh chấp Hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2022/QĐXX-HNGĐ ngày 09 tháng 02 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lăng Thị H, sinh năm 1993 Nơi cư trú: Xóm TĐ, xã TL, huyện ĐH, tỉnh TN.

2. Bị đơn: Anh Diệp Văn Nh, sinh năm 1990 Nơi ĐKHKTT: Xóm TĐ, xã TL, huyện ĐH, tỉnh TN.

Hiện đang cải tạo tại: Phân trại số A, Trại giam X (Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn, bản tự khai, cùng các tài liệu, giấy tờ có trong hồ sơ vụ án nguyên đơn chị Lăng Thị H trình bày:

Chị và anh Diệp Văn Nh kết hôn năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tân Lợi, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở tự nguyện và được tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại xóm TĐ, xã TL, huyện ĐH, tỉnh TN. Quá trình chung sống thời gian đầu hòa thuận, hạnh phúc. Tới năm 2015 thì vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã, xô xát nên cuối năm 2015 chị đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ sống, vợ chồng sống ly thân từ đó. Tới năm 2017, anh Diệp Văn Nh phạm tội hiếp dâm và phải đi cải tạo tại Trại giam X. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân của vợ chồng đã lâm vào tình trạng trầm trọng, không thể khắc phục để tiếp tục chung sống với nhau nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Diệp Văn Nh.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung là Diệp Thị Đ, sinh ngày 14/5/2011 và Diệp Thị Y, sinh ngày 06/10/2014. Sau khi ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả hai con chung. Về cấp dưỡng nuôi con, chị không yêu cầu.

Về tài sản chung, công nợ chung: Không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai và đơn đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt anh Diệp Văn Nh xác định:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị H kết hôn năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tân Lợi, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại xóm TĐ, xã TL, huyện ĐH, tỉnh TN, quá trình chung sống, từ năm 2016 chị H đi làm xa và vợ chồng sống ly thân từ đó cho tới khi anh bị bắt giam. Từ khi ly thân cho tới nay, anh và chị H không có liên lạc và không biết thông tin gì về nhau. Nay chị H khởi kiện ly hôn anh Nh trí, đồng ý ly hôn với chị Lăng Thị H.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung là Diệp Thị Đ, sinh ngày 14/5/2011 và Diệp Thị Y, sinh ngày 06/10/2014, hiện hai con chung đang sống cùng bố mẹ anh. Sau khi ly hôn, anh đồng ý cho chị H được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả hai con chung. Đến khi chấp hành xong án phạt tù xong, anh có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục một trong hai con chung.

Về tài sản chung, công nợ chung: Không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nguyện vọng của con chung: Tại đơn đề nghị đề ngày 19/11/2021, hai cháu Diệp Thị Đ, sinh ngày 14/5/2011 và Diệp Thị Y, sinh ngày 06/10/2014 xác định nguyện vọng sau khi bố mẹ ly hôn hai cháu muốn được sống cùng với mẹ.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng để giải quyết vụ án. Nguyên đơn chấp hành đúng các quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn do hiện tại đang phải thi hành án tại Trại giam Quyết Tiến do đo chưa chấp hành được đầy đủ các quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét tại phiên tòa, nhận thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng các Điều 21, 28, 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, 56, 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, quyết định:

+ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Lăng Thị H.

+ Về con chung: Giao cả 02 con chung là Diệp Thị Đ, sinh ngày 14/5/2011 và Diệp Thị Y, sinh ngày 06/10/2014 cho chị Lăng Thị H chăm sóc, nôi dưỡng. Chị H không yêu cầu anh Nh cấp dưỡng nuôi con. Anh Nh được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở.

+ Về tài sản chung, công nợ chung: Không có, không xem xét giải quyết.

+ Án phí: Chị Lăng Thị H phải nộp án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng:

Đây là vụ án tranh chấp Hôn nhân và gia đình giữa nguyên đơn chị Lăng Thị H với bị đơn anh Diệp Văn Nh, cùng đăng ký hộ khẩu thường trú tại: xã TL, huyện ĐH, tỉnh TN. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.

Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lăng Thị H có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải. Do đó, vụ án không tiến hành hòa giải được phải đưa ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa nguyên đơn chị Lăng Thị H, bị đơn anh Diệp Văn Nh vắng mặt có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt hai bên đương sự.

[2]. Về nội dung vụ án:

+ Quan hệ hôn nhân: Chị Lăng Thị H và anh Diệp Văn Nh kết hôn năm 2010, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Tân Lợi, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở tự nguyện và được tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Vì vậy, đây là cuộc hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại xóm TĐ, xã TL, huyện ĐH, tỉnh TN. Quá trình chung sống, thời gian đầu hòa thuận, hạnh phúc. Tới năm 2015 vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, nên thường xuyên cãi vã, từ đầu năm 2016 vợ chồng đã sống ly thân, từ đó cho tới nay hai bên không còn liên lạc. Năm 2017, anh Diệp Văn Nh bị bắt vì tội hiếp dâm và hiện đang thi hành án tại Trại giam X. Chị H khởi kiện yêu cầu ly hôn và anh Nh cũng đồng ý.

Qua đó, Hội đồng xét xử xét thấy cuộc hôn nhân hiện nay giữa chị Lăng Thị H và anh Diệp Văn Nh đã lâm vào tình trạng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, xét yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Lăng Thị H là có cơ sở chấp nhận, cho chị Lăng Thị H được ly hôn với anh Diệp Văn Nh là phù hợp với các quy định của pháp luật.

+ Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 02 con chung là Diệp Thị Đ, sinh ngày 14/5/2011 và Diệp Thị Y, sinh ngày 06/10/2014, hai con chung đều có nguyện vọng sau khi bố mẹ ly hôn được sống cùng với mẹ. Chị H có nguyện vọng muốn được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cả 02 con chung và không yêu cầu anh Nh cấp dưỡng. Anh Nh đồng ý để chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cả 02 con chung, sau khi anh chấp hành án xong anh có nguyện vọng được nuôi dưỡng một trong hai con.

Hội đồng xét xử xét thấy, cả hai con chung hiện đã trên 07 tuổi và có nguyện vọng muốn được sống với mẹ sau khi bố mẹ ly hôn, bản thân chị H có nguyện vọng muốn được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cả 02 con chung. Anh Nh đang phải chấp hành án tại Trại giam X, do vậy không thể trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Do đó, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung sau khi vợ chồng ly hôn thì cần giao hai con chung là Diệp Thị Đ, Diệp Thị Y cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho tới khi hai cháu thành niên (đủ 18 tuổi) hoặc tới khi có sự thay đổi khác.

Về cấp dưỡng nuôi con: Đương sự không có yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

Anh Diệp Văn Nh có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng cho con chung.

+ Về tài sản chung, công nợ chung: Đương sự không có yêu cầu. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Các đương sự được quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự khác khi có yêu cầu.

[3]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chị Lăng Thị H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 264, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện ly hôn của chị Lăng Thị H, cho chị Lăng Thị H được ly hôn với anh Diệp Văn Nh.

2. Về con chung: Giao 02 con chung là Diệp Thị Đ, sinh ngày 14/5/2011 và Diệp Thị Y, sinh ngày 06/10/2014 cho chị Lăng Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho tới khi hai con chung thành niên (đủ 18 tuổi) hoặc tới khi có sự thay đổi khác. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Diệp Văn Nh vì chị Lăng Thị H chưa có yêu cầu.

Anh Diệp Văn Nh có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng cho con chung.

3. Về tài sản chung, công nợ chung: Đương sự không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Các đương sự được quyền khởi kiện bằng vụ án khác khi có yêu cầu.

4. Án phí: Chị Lăng Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước. Được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005213 ngày 19/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Chị Lăng Thị H đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt nguyên đơn chị H, bị đơn anh Nh, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 06/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về