17/08/2022 16:08

Tuyển tập bản án về chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân còn tồn tại

Tuyển tập bản án về chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân còn tồn tại

“Vợ chồng tôi thường xuyên mâu thuẫn với nhau về việc đầu tư kinh doanh vì vậy chúng tôi đang dự định chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để mỗi người tự đầu tư kinh doanh riêng. Vậy tôi mong Ban biên tập tìm cho tôi một số bản án về vấn đề chia tài sản chung vợ chồng để tôi tham khảo. Xin cảm ơn!”_ Phương thảo (Bình Định)

 

Chào chị Thảo, đối với nội dung chị yêu cầu, Ban biên tập xin gửi đến chị một số bản án sau:

1. Bản án 03/2018/HNGĐ-PT ngày 15/01/2018 về tranh chấp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ.

+ Trích dẫn nội dung:  Ông A và bà Trần Thị B đăng ký kết hôn năm 1988. Do bất đồng quan điểm nên đã sống ly thân từ năm 2011, quá trình chung sống đã tạo lập tài sản, về kinh tế gia đình đều do ông lo liệu phía bà B không có đóng góp gì, nay ông yêu cầu chia tài sản chung  gồm: Bà B phải trả số tiền 92.000.000 đồng là tiền mà bà B đã lấy của ông để cho người khác vay cùng tiền lãi, cụ thể là số tiền 60.000.000 đồng với lãi suất 3%/tháng tính từ ngày 01/3/1999 và 32.000.000 đồng lãi suất 2,5%/tháng tính từ ngày 01/01/2004 đến ngày xét xử sơ thẩm. Theo đơn khởi kiện bổ sung, ông còn yêu cầu chia số tiền trong thẻ ATM và tiền mua cổ phiếu Công ty X của bà B, ông không biết cụ thể là bao nhiêu tiền. Ngoài ra, ông A yêu cầu bà B phải đóng góp nghĩa vụ với gia đình số tiền là 2.000.000 đồng/tháng, tính từ năm 2012 đến năm 2020.”       

2. Bản án 16/2021/HNGĐ-PT ngày 01/02/2021 về chia tài sản chung vợ chồng

+ Cơ quan xét xử: Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội.

+ Trích dẫn nội dung: ‘Bà Y kết hôn với ông D với nhau năm 1959, vợ chồng có 3 người con chung nay đã trưởng thành. Quá trình chung sống vợ chồng bà Y tạo lập được khối tài sản chung là nhà đất trên diện tích 276,3 m2 đất tại XX, phường La Khê, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Do vợ chồng bà Y không thống nhất về việc sử dụng mảnh đất nói trên. Nay khởi kiện đề nghị Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là nhà đất trên diện tích 276,3m2 tại XX, phường La Khê, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.”

3. Bản án 20/2018/HNGĐ-ST ngày 27/09/2018 về yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh.

+ Trích dẫn nội dung: “Ông Quách Văn C yêu cầu Tòa án chia tài sản chung số tiền 700.000.000 đồng đang gửi tại Ngân hàng Thương mại C, chi nhánh T thành hai phần, mỗi người được hưởng 350.000.000 đồng. Hiện số tiền 700.000.000 đồng đang bị phong tỏa để đảm bảo thi hành án theo quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 02/2016 ngày 21/11/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh nhằm đảm bảo thi hành án cho bản án số 03/2017/DSST ngày 13/3/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh, buộc bà Lữ Thị Kim D trả cho bà Ward, Tien L số tiền 30.000 USD tương đương 684.600.000 đồng. Đây là vụ án “Yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân”; Vụ án có đương sự người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Ward, Tien L đang sống tại Hoa Kỳ. 

4. Bản án 21/2020/HNGĐ-PT ngày 31/07/2020 về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.

+ Trích dẫn nội dung: “chị Phan Thị Tr và anh Ngũ Hồng H kết hôn với nhau ngày 9/4/2012. Nay vợ chồng sống ly thân nhau, anh Ngũ Hồng H khóa cửa không cho chị Tr ở trong nhà. Hiện tại anh Ngũ Hồng H đang cư trú và sinh sống tại thành phố Móng Cái, Quảng Ninh. Để đảm bảo cuộc sống cho hai mẹ con, chị Tr đề nghị Tòa án nhân dân D chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng để mẹ con chị Tr có tài sản sử dụng, ổn định cuộc sống và đề nghị chia cho anh H sử dụng, sở hữu thửa đất 901, tờ bản đồ số 03 diện tích 75m2, tại khối Bắc, xã D, huyện D cùng với tài sản trên đất có giá trị nhiều hơn, anh H không phải trích chênh lệch trị giá cho chị Tr.”

5. Bản án 19/2019/HNGĐ-PT ngày 05/07/2019 về tranh chấp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

+ Trích dẫn nội dung: “Ông Đào Thế NĐ và bà Kim Tuyết BĐ kết hôn năm 2005. Trước đó bà BĐ được cha mẹ của bà là ông Kim B và bà Nguyễn Thị K tặng căn nhà 290A/41 Đường A năm 2002. Do nhà bị xuống cấp hư hỏng nên ông NĐ bỏ ra số tiền 650.000.000 đồng để sửa chữa xây dựng lại mới căn nhà và xây dựng xong vào tháng 12/2015, có những người làm chứng là ông Nguyễn Văn NLC1, ông Ngô Lê Vĩnh NLC2, ông Võ Thành NLC3 xác nhận. Đầu năm 2016, ông NĐ phát hiện bà BĐ bán nhà trên cho ông Thới Văn NLQ1 với giá 1.700.000.000 đồng, bà BĐ đã nhận 1.650.000.000 đồng, bà BĐ tự ý bán nhà không có sự đồng ý của ông NĐ.”

6. Bản án 07/2018/HN-PT ngày 11/01/2018 về yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.

+ Trích dẫn nội dung: “Bà Đ và ông Nguyễn Văn R tự nguyện kết hôn vào năm 1969, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T vào năm 1996. Sau khi cưới, bà và ông R sống chung với mẹ chồng tại ấp T, xã T và được mẹ chồng cho chung vợ chồng bà hơn 15 công đất tại ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre. Trong đó có thửa đất số 3585 nhưng ông R đã bán một phần trong thửa đất này, hiện còn lại 1.088,3m2 và hiện tại ông R đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2014. Các thửa đất còn lại cũng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1997, do ông R thay mặt hộ gia đình đứng tên. Do cuộc sống vợ chồng có nhiều mâu thuẩn, ông R hay đánh đập bà nên vợ chồng đã sống ly thân từ năm 1987 nhưng bà vẫn còn về thăm mẹ chồng và làm giấy đăng ký kết hôn vào 1996. Bà xác định thửa đất số 3585 diện tích 1.645,8m2 tại ấp T, xã T là tài sản chung của bà và ông R do được tặng cho chung, thực tế thì bà không có quản lý, sử dụng thửa đất này một ngày nào hết. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết chia cho bà 822,9m2 đất thuộc một phần của thửa 3585. Đối với các phần đất mà ông R đã bán, bà không yêu cầu Tòa án tuyên hủy các hợp đồng này vì đây là việc ông R tự định đoạt phần tài sản riêng trong khối tài sản chung của ông.”

7. Bản án 08/2019/HNGĐ-PT ngày 07/03/2019 về tranh chấp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang.        

+ Trích dẫn nội dung: “Cụ M với cụ C chung sống vợ chồng năm 1963, không có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống, vợ chồng cụ M tạo lập được khối tài sản chung gồm 03 phần đất thuộc thửa số 356, tờ bản đồ số 25 diện tích 12.203m2, tọa lạc tại ấp B, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang, gồm: Năm 1969, cụ M nhận thừa kế của cha, mẹ 4.000m2; Năm 1974, cụ M và cụ C mua 4.203m2, hiện trên phần đất này có nhà kiên cố trị giá khoảng 200.000.000 đồng; Năm 1988, cụ M và cụ C mua 4.000m2 cặp lộ 864. Nay do có nhu cầu sử dụng riêng nên cụ M khởi kiện yêu cầu Tòa án chia đôi tài sản chung của vợ chồng, cụ thể: Cụ M yêu cầu chia 4.000m2 đất của cha mẹ cụ để lại và 2.000m2 đất mặt tiền cặp tỉnh lộ 864, tọa lạc tại ấp B, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang; Chia cho cụ M ½ giá trị căn nhà theo biên bản định giá ngày 10/01/2018.”

Nguyễn Sáng
2538

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: info@thuvienphapluat.vn