Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung số 423/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 423/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Trong ngày 27 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 342/2022/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2022 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 601/2022/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 685/2022/QĐST-HNGĐ ngày 06/9/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Mách Ro Mi L, sinh năm: 1992, cư trú: số 61, tổ 03, ấp V, xã H, huyện C, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Ông Mu S, sinh năm 1988; địa chỉ: Tổ 11, ấp B, xã K, huyện A, tỉnh An Giang.

(Tại phiên tòa tất cả vắng mặt; bà Mách Ro Mi L có đơn)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng với các tài liệu, chứng cứ kèm theo và quá trình tố tụng tại Tòa án, bà Mách Ro Mi L trình bày:

Về hôn nhân: Ông bà tiến đến hôn nhân là do mai mối, đồng ý tổ chức lễ cưới vào năm 2010 và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện C vào năm 2011. Cuộc sống vợ chồng tương đối hạnh phúc đến năm 2015 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn vợ chồng do ông Mu S có tình cảm với người phụ nữ khác, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, không tìm được tiếng nói chung. Đến tháng 08/2015 vợ chồng sống ly thân cho đến nay mặc dù gia đình hai bên đã ra sức hà gắn nhưng không được. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu được ly hôn.

Về con chung: Có 01 con chung tên AB DOL MA L, sinh ngày 28/02/2011, hiện do bà chăm sóc. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi và không yêu cầu ông Mu S cấp dưỡng Về tài sản chung và nợ chung: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà Mách Ro Mi L là người dân tộc Chăm nhưng có đơn từ chối phiên dịch, bà yêu cầu không tiến hành hòa giải mà đưa vụ án ra xét xử do bà kiên quyết ly hôn, không còn tình cảm với ông Mu S. Đồng thời, bà xin vắng mặt tại phiên hòa giải và phiên tòa bảo lưu ý kiến.

Về tài liệu chứng cứ: Các tài liệu chứng cứ các đương sự giao nộp đã được thẩm tra và công khai trong quá trình hòa giải, các đương sự không có ý kiến gì về các tài liệu chứng cứ và tại phiên tòa không ai giao nộp bổ sung thêm tài liệu chứng cứ khác.

Cháu AB DOL MA L cho biết: Cháu là người dân tộc Chăm, có thể nói viết nghe rõ Tiếng Việt nên không cần phiên dịch. Ông Mu S là cha ruột, bà Mách Ro Mi L là mẹ ruột nhưng không còn chung sống với nhau từ năm 2015, nguyên nhân cháu không rõ. Nếu Tòa án giải quyết cha mẹ cháu ly hôn thì cháu có nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ và không yêu cầu gì về cha.

Trong quá trình thụ lý, hòa giải Tòa án đã tiến hành cấp tống đạt cho ông Mu S theo quy định nhưng ông vẫn không có mặt theo các thông báo của Tòa án. Tòa án tiến hành xác minh nơi cư trú và tình trạng hôn nhân của bà Mách Ro Mi L và ông Mu S để giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Chứng cứ mà Tòa án thu thập được:

Về nơi cư trú: Theo Thông báo số định danh cá nhân của Công an xã K ngày 12/8/2022 xác định ông Mu S vẫn còn đăng ký hộ khẩu tại ấp B, xã K, huyện A, tỉnh An Giang chưa thực hiện tách, chuyển đi nơi khác.

Về mâu thuẫn hôn nhân: Ông AB DO RO H là anh ruột của bà Mi L cho biết quan hệ hôn nhân và mâu thuẫn đúng như lời bà Mi L trình bày. Ông Mu S phát sinh tình cảm với người phụ nữ khác, bỏ mặt vợ con không chăm lo. Bà Mách Ro Mi L và gia đình nhiều lần liên hệ nhưng không được. Bà Mi L còn tình cảm nên chờ đợi nhiều năm nay nhưng không có kết quả nên mới nộp đơn xin ly hôn.

Tại phiên tòa, bà Mi L vắng mặt có đơn, ông Mu S đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt ông bà theo thủ tục chung.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong ghi lời khai, thủ tục xét xử vắng mặt, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng… là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa, thời hạn xét xử cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về nội dung: Yêu cầu của nguyên đơn có căn cứ nên đề nghị chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp: Bà Mi h chung sống với ông Mu S đến năm 2015 thì không còn hạnh phúc nên bà khởi kiện yêu cầu được ly hôn, Tòa án thụ lý vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc ly hôn, nuôi con chung là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Ông Mu S hiện đang cư trú tại xã K, huyện A. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1, Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A, An Giang.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Mi L, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[3.1] Về hôn nhân: Bà Mi L và ông Mu S xây dựng gia đình thông qua sự mai mối của người lớn nhưng tự nguyện chung sống có tiến hành tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện C vào ngày 30/11/2011 nên phát sinh trách nhiệm pháp lý, phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên và được pháp luật bảo vệ theo Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Mặc dù Tòa án đã động viên và hòa giải nhưng bà Mi L vẫn cương quyết xin được ly hôn với ông Mu S. Tại phiên tòa hòa giải bà Mi L yêu cầu không tiến hành hòa giải do không còn tình cảm và tại phiên tòa hôm nay bà vắng mặt đã thể hiện việc không thể quay lại chung sống với ông Mu S. Hội đồng xét xử xét thấy thời gian ly thân từ năm 2015 đến nay nhưng cả hai không có giải pháp hàn gắn, gia đình hai bên để ông bà tự giải quyết với nhau nhưng đến nay không có kết quả.

Bà Mi L cho rằng nguyên nhân xin ly hôn là do ông Mu S có quan hệ tình cảm với người khác, bỏ mặt vợ con nhiều năm nay không liên lạc, gia đình hàn gắn không thành. Mâu thuẫn vợ chồng ông bà phù hợp với lời trình bày của AB DO RO H là anh ruột của bà Mi L. Xét thấy mâu thuẫn của ông bà là trầm trọng, không thể hàn gắn nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3.2] Về con chung: Trong quá trình chung sống có 01 con chung tên AB DOL MA L, sinh ngày 28/02/2011, hiện do bà Mi L chăm sóc. Khi ly hôn bà Mi L yêu cầu được nuôi con chung.

Đối với yêu cầu của bà Mi L về con chung Hội đồng xét xử nhận thấy: Từ khi ông bà ly thân đến nay con chung được bà Mi L cùng gia đình nuôi dưỡng, chăm sóc, phát triển tốt, tình cảm mẹ - con đã gắn bó việc thay đổi chỗ ở, hoàn cảnh sống đột ngột sẽ ảnh hưởng đến tâm sinh lý và sự phát triển của cháu sau này.

Quan trọng hơn hai cháu MA L có nguyện vọng được tiếp tục sống với bà Mi L nên theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình giao cháu MA L cho bà Mi L tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với hoàn cảnh và quy định pháp luật.

[3.3] Về cấp dưỡng: Theo quy định của pháp luật, khi ly hôn bên không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, bà Mi L không yêu cầu ông Mu S cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử công nhận sự tự nguyện của bà.

Hội đồng xét xử giải thích cho các đương sự biết: Bà Mi L cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông Mu S trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

[3.4] Về tài sản chung, nợ chung: Trong quá trình chung sống ông bà không có nên không yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét.

[4] Về án phí: Bà Mi L là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm. Các đương sự không phải chịu án phí nào khác.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Căn cứ khoản 4 Điều 147, các Điều 227, 228, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Căn cứ Điều 27, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016;

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Mách Ro Mi h.

1. Về hôn nhân: Bà Mách Ro Mi L được ly hôn với ông Mu S.

Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 197 ngày 30/11/2011 của Ủy ban nhân dân xã H, huyện C, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: Bà Mách Ro Mi L được tiếp tục nuôi cháu AB DOL MA L, sinh ngày 28/02/2011.

Công nhận tự nguyện của bà Mi L không yêu cầu ông Mu S cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà Mi L cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông Mu S trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

3. Về án phí: Bà Mi L phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được chuyển từ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0006506 ngày 20/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A. Bà Mi L nộp đủ. Các đương sự không phải chịu án phí nào khác.

4. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 27/9/2022), các đương sự được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Riêng thời hạn kháng cáo đối với người vắng mặt được tính kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung số 423/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:423/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: đang cập nhật
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về