Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 39/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 39/2022/HNGĐ-ST NGÀY 10/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 10 tháng 08 năm 2022, tại phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xét xử sơ thẩm, công khai vụ án thụ lý số 54/2022/TLST- HNGĐ ngày 06 tháng 04 năm 2022 về việc Tranh chấp Hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 07 năm 2022 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị M1, sinh năm 1981; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn V1, xã T1, huyện T2, tỉnh Thái Bình. Nơi cư trú hiện nay: Thôn A1, xã T1, huyện T2, tỉnh Thái Bình. Có mặt.

2.Bị đơn: Anh Đ1, sinh năm 1982; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, nơi cư trú: Thôn V1, xã T1, huyện T2, tỉnh Thái Bình; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 29- 03- 2022; 04- 04- 2022 và trong quá trình giải quyết, nguyên đơn là chị M1 trình bày: Chị và anh Đ1 tự nguyện đăng ký kết hôn; đã được Ủy ban nhân dân xã T1 cấp giấy chứng nhận kết hôn số 26 ngày 24 tháng 12 năm 2003. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại gia đình chồng. Vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ ngày 15- 03- 2022, nguyên nhân do tính tình không hợp. Do vợ chồng mâu thuẫn, nên từ ngày 15- 03- 2022 đến nay, chị đã về nhà bố mẹ đẻ ở thôn A1, cùng xã T1, làm ăn và sinh sống. Từ đó, vợ chồng không sống chung với nhau, không còn thương yêu nhau, không quan tâm chăm sóc nhau nữa. Chị xác định: Vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị có nguyện vọng xin ly hôn anh Đ1. Hiện nay, chị không mang thai . Về con chung: Vơ chông co 03 con chung la M2, sinh ngày 19 tháng 06 năm 2004; C1, sinh ngày 07 tháng 09 năm 2007; D1, sinh ngày 15 tháng 01 năm 2019. Hiện nay, hai con chung C1 và D1 đang sinh sống cùng anh Đ1. Con chung M2 đã thành niên, có sức khỏe, đủ khả năng lao động và đang sống cùng chị. Chị có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con chung M2 và D1; chị đồng ý để anh Đ1 trực tiếp nuôi dưỡng con chung C1; hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Chị là giáo viên mầm non nên có thời gian chăm sóc con; có thu nhập ổn định là 6.819.400đồng/tháng; được bố mẹ chị đồng ý cho ở tại nhà của bố mẹ chị; cũng được bố mẹ chị cũng giúp đỡ về kinh tế và chăm sóc con chị. Về tài sản chung:

Vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung, không có ai nợ chung vợ chồng nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 09- 06- 2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là anh Đ1 trình bày: Anh và chị M1 cùng ở xã T1, tự nguyện đăng ký kết hôn; đã được Ủy ban nhân dân xã T1 cấp giấy chứng nhận kết hôn số 26 ngày 24 tháng 12 năm 2003. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại gia đình anh. Vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ ngày 15- 03- 2022 do tính tình không hợp. Do vợ chồng mâu thuẫn nên từ ngày 15- 03- 2022 đến nay, chị M1 đã về nhà bố mẹ đẻ ở thôn A1 cùng xã T1 làm ăn và sinh sống. Từ đó, vợ chồng không sống chung với nhau, không còn thương yêu nhau, không quan tâm chăm sóc nhau nữa. Tuy vậy, anh muốn đoàn tụ vợ chồng nên không đồng ý ly hôn nhưng anh không có biện pháp hòa giải mâu thuẫn vợ chồng. Vơ chông co 03 con chung la M2, sinh ngày 19 tháng 06 năm 2004; C1, sinh ngày 07 tháng 09 năm 2007; D1, sinh ngày 15 tháng 01 năm 2019. Hiện nay con chung M2 đã đi làm và đang sống cùng chị M1. Hai con chung C1 và D1 đang sống cùng anh. Anh có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cả ba con chung. Anh không yêu cầu chị M1 cấp dưỡng nuôi con chung M2. Anh yêu cầu chị M1 cấp dưỡng nuôi các con C1 và D1; mức cấp dưỡng nuôi một con trong một tháng là 2.000.000đồng; thời gian cấp dưỡng từ khi bản án có hiệu lực pháp luật đến khi con chung thành niên. Anh làm công việc sơn tường nhà, là lao động tự do nhận việc của các gia đình; hiện đang làm ở Hải Phòng; thời gian làm việc từ 07 giờ sáng đến 17 giờ; sáng đi tối về. Thu nhập một tháng là khoảng từ 5.000.000đồng đến 8.000.000đồng- anh không có tài liệu chứng minh thu nhập nên không có tài liệu chứng minh để giao nộp Tòa án. Hiện bố con anh đang sinh sống cùng mẹ anh ở ngôi nhà của bố mẹ anh tại thôn V1, xã T1. Mẹ anh đồng ý cho bố con anh sinh sống tại đây. Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không có ai nợ chung vợ chồng nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh còn nợ riêng Ngân hàng X 10.000.000đồng và số lãi phát sinh của số tiền gốc này nhưng Ngân hàng không yêu cầu khởi kiện.

Tại phiên tòa, anh Đ1 có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cả ba con chung; anh không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung M2; anh yêu cầu chị M1 cấp dưỡng nuôi các con C1 và D1; mức cấp dưỡng nuôi một con trong một tháng là 1.500.000đồng.

Tại công văn số 88/NHCS-TB ngày 27 tháng 06 năm 2022, đại diện Phòng giao dịch Ngân hàng X trình bày: Anh Đ1 là đại diện hộ gia đình đứng tên vay vốn chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn và đã được Ngân hàng phê duyệt giải ngân ngày 14 tháng 03 năm 2019 với tổng số tiền 20.000.000đồng. Ngày 14 tháng 06 năm 2022, chị M1 đã đến điểm trực giao dịch của Ngân hàng tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã T1 thanh toán 10.000.000đồng. Số tiền nợ gốc 10.000.000đồng còn lại đã được anh Đ1 cam kết nhận nợ; cam kết trả nợ lãi hàng tháng đầy đủ, đến hạn sẽ trả đầy đủ gốc và lãi theo quy định. Vì vậy, Phòng giao dịch Ngân hàng X không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

Tại đơn đề ngày 03- 04- 2022, con chung của anh chị là M2 có nguyện vọng ở với mẹ.

Tại đơn đề ngày 03- 04- 2022, con chung của anh chị là C1 có nguyện vọng ở với mẹ. Nhưng tại đơn ngày 09- 05- 2022 và tại phiên họp ngày 09 tháng 06 năm 2022 thì C1 có nguyện vọng ở với bố.

Kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân xã T1: Chị M1 và anh Đ1 là công dân xã T1; anh chị tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 24 tháng 12 năm 2003. Vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn từ đầu năm 2022, nguyên nhân do tính tình không hợp. Từ tháng 03 năm 2022, chị M1 đã về nhà bố mẹ đẻ chị sinh sống. Anh chị có ba con chung là M2, sinh ngày 19 tháng 06 năm 2004; C1, sinh ngày 07 tháng 09 năm 2007; D1, sinh ngày 15 tháng 01 năm 2019. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Anh chị không yêu cầu giải quyết về tài sản chung. Về khoản nợ: Anh chị có khoản vay Ngân hàng X 20.000.000đồng về chương trình nước sạch nông thôn. Ngày 14- 06- 2022, chị M1 đã trả 10.000.000đồng gốc; số tiền gốc còn lại đã được anh Đ1 cam kết trả nợ cho Ngân hàng gốc và lãi.

Tại phiên họp kiểm tra tiếp cận công khai chứng cứ, chị M1 yêu cầu ly hôn, anh Đ1 không đồng ý ly hôn; nguyên đơn, bị đơn không thỏa thuận về việc nuôi dưỡng con chung nên hòa giải không thành, vụ án phải đưa ra xét xử.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Đúng quy định của pháp luật. Ý kiến của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình; Điều 25 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Kiểm sát viên đề nghị: Xử cho chị M1 ly hôn anh Đ1. Về con chung: Vợ chồng chị M1- anh Đ1 có ba con chung là M2, sinh ngày 19 tháng 06 năm 2004; C1, sinh ngày 07 tháng 09 năm 2007; D1, sinh ngày 15 tháng 01 năm 2019. Con chung M2, sinh ngày 19 tháng 06 năm 2004 nên không đặt ra vấn đề nuôi dưỡng. Đề nghị: Giao con chung D1 cho chị M1 trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung C1 cho anh Đ1 trực tiếp nuôi dưỡng; hai bên không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung: Không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết. Về nợ chung: Ngân hàng X không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết. Về án phí: Chị M1 phải nộp 300.000đồng án phí ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Khi Tòa án tiến hành hòa giải, các đương sự không thỏa thuận được về giải quyết vụ án nên hòa giải không thành, vụ án phải đưa ra xét xử.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Việc kết hôn giữa chị M1 và anh Đ1 là tự nguyện và hợp pháp. Từ ngày 15- 03- 2022, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn; do vợ chồng mâu thuẫn nên chị M1 đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống và viết đơn xin ly hôn. Từ khi mâu thuẫn, vợ chồng không sống chung với nhau, không còn thương yêu, không quan tâm chăm sóc nhau nữa. Anh Đ1 tuy có nguyện vọng đoàn tụ nhưng anh không có biện pháp hòa giải nên vợ chồng vẫn mâu thuẫn. Quá trình hòa giải, chị M1 vẫn kiên quyết xin ly hôn. Như vậy, có căn cứ xác định vợ chồng chị M1- anh Đ1 đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình xử cho chị M1 ly hôn anh Đ1.

[3]. Về con chung: Vợ chồng chị M1- anh Đ1 có ba con chung là M2, sinh ngày 19 tháng 06 năm 2004; C1, sinh ngày 07 tháng 09 năm 2007; D1, sinh ngày 15 tháng 01 năm 2019. Chị M1 có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con chung M2 và D1; đồng ý để anh Đ1 nuôi dưỡng con chung C1; không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Đ1 có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cả ba con chung; anh không yêu cầu chị M1 cấp dưỡng nuôi con chung M2; anh yêu cầu chị M1 cấp dưỡng nuôi các con C1 và D1; mức cấp dưỡng nuôi một con trong một tháng là 2.000.000đồng; thời gian cấp dưỡng từ khi bản án có hiệu lực pháp luật đến khi con chung thành niên. Anh Đ1 đã được Tòa án giải thích nghĩa vụ chứng minh của đương sự theo Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự; đã được Tòa án yêu cầu anh trình bày giao nộp tài liệu chứng cứ về việc làm, thu nhập, điều kiện chỗ ở và các điều kiện khác liên quan đến việc nuôi con chung. Anh nhất trí với giải thích của Tòa án và anh đã hai lần cam kết giao nộp tài liệu chứng cứ cho Tòa án; quá hạn mà không giao nộp được thì xác định anh từ bỏ yêu cầu của mình. Tuy nhiên, anh chỉ giao nộp “Đơn trình bày về việc làm” trong đó anh trình bày anh làm sơn, thu nhập 5.000.000đồng đến 7.000.000đồng; ngoài ra anh không trình bày, không giao nộp tài liệu gì khác. Chị M1 là giáo viên mầm non nên có thời gian chăm sóc con; có thu nhập ổn định là 6.819.400đồng/tháng; được bố mẹ chị đồng ý cho ở tại nhà của bố mẹ chị; cũng được bố mẹ chị cũng giúp đỡ về kinh tế và chăm sóc con. Chị đã giao nộp tài liệu chứng cứ về việc làm, thu nhập và chỗ ở cho Tòa án. Các con chung của anh chị là M2 có nguyện vọng ở với mẹ; C1 có nguyện vọng ở với bố. Khi xét xử thì con chung M2 đã thành niên, có sức khỏe, có khả năng lao động nên không đặt ra giải quyết việc nuôi dưỡng. Vì vậy, cần giao con chung D1 cho chị M1 trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung C1 cho anh Đ1 trực tiếp nuôi dưỡng; hai bên không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Không chấp nhận yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng cả ba con chung của anh Đ1.

[4]. Về tài sản chung: Nguyên đơn, bị đơn đều xác định: Vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung, không có ai nợ chung vợ chồng; nguyên đơn, bị đơn đều không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

[5]. Về khoản nợ Ngân hàng X: Anh Đ1, chị M1 và Ngân hàng X xác định: Anh chị nợ Ngân hàng chính sách số tiền 20.000.000đồng vay vốn chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Sau khi thụ lý vụ án, ngày 14 tháng 06 năm 2022, chị M1 đã trả Ngân hàng 10.000.000đồng; số tiền nợ gốc còn lại 10.000.000đdồng đã được anh Đ1 cam kết nhận nợ và cam kết trả lãi đầy đủ hàng tháng, đến hạn sẽ trả đầy đủ gốc và lãi theo quy định. Do đó, Ngân hàng X không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này. Vì vậy, Tòa án không xem xét giải quyết; Ngân hàng X không phải người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

[6]. Về án phí: Nguyên đơn là chị M1 phải chịu 300.000,đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị M1 ly hôn anh Đ1.

2. Về con chung:- Vợ chồng chị M1- anh Đ1 có ba con chung là M2, sinh ngày 19 tháng 06 năm 2004; C1, sinh ngày 07 tháng 09 năm 2007; D1, sinh ngày 15 tháng 01 năm 2019.

-Con chung M2, sinh ngày 19 tháng 06 năm 2004 đã thành niên nên không đặt ra việc nuôi dưỡng.

-Xử giao con chung D1, sinh ngày 15 tháng 01 năm 2019 cho chị M1 trực tiếp nuôi dưỡng; xử giao con chung C1, sinh ngày 07 tháng 09 năm 2007 cho anh Đ1 trực tiếp nuôi dưỡng. Hai bên không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

-Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Nguyên đơn, bị đơn đều không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị M1 phải nộp toàn bộ 300.000,đồng án phí ly hôn; được trừ vào số tiền 300.000,đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0004112 ngày 06 tháng 04 năm 2022 của Chi cục Thi hành án huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Chị M1 đã nộp đủ án phí.

5.Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 39/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:39/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về