Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 27/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH Đ

BẢN ÁN 27/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 12 tháng 8 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện C, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:139/2022/TLST- HNGĐ, ngày 19/4/2022, về việc: “Tranh chấp về hôn nhân gia đình”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:26/2022/QĐXX-ST, ngày 04/7/2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Bích H, sinh năm 1994 – Có mặt Địa chỉ: Tổ dân phố 14, thị trấn V, huyện V, tỉnh K

2. Bị đơn: Anh Trần Thanh H, sinh năm 1987 – Vắng mặt Địa chỉ: Số nhà 113, thôn 1, xã C, huyện C, tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn: Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa, chị Trần Thị Bích H trình bày:

Tôi và anh Trần Thanh H sau thời gian tìm hiểu đã tự nguyện đi đến hôn nhân, cũng như được sự đồng ý của hai bên gia đình, họ hàng và tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán. Chúng tôi có đăng ký kết hôn vào ngày 10/01/2013 tại UBND xã C, huyện C, tỉnh Đ.

Quá trình duy trì cuộc sống hôn nhân: Thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc không có vấn đề gì. Tuy nhiên giữa chúng tôi chỉ hòa thuận được một thời gian ngắn, kể từ năm 2014 cho đến nay giữa tôi và anh H xẩy ra rất nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn nên chúng tôi đã sống ly thân nhau từ đó cho đến nay, tôi đã về sinh sống với gia đình ở huyện V, tỉnh K. Nguyên nhân là do tính tình không hợp nhau, thường bất đồng về quan điểm, lối sống, nhưng nguyên nhân chính là do anh Hà hay đánh đập vợ con, không lo làm ăn thường xuyên tụ tập bài, số đề. Mặc dù tôi đã nhịn nhục để con có bố và không muốn hôn nhân đổ vỡ nhưng càng ngày anh H càng quá đáng và tỏ ra coi thường vợ con, không tôn trọng tôi. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng không thể hàn gắn. Vì vậy tôi đề nghị Tòa án giải quyết cho được ly hôn với anh H.

Về con chung: Chúng tôi có với nhau 01 con chung là cháu Trần Trung H, sinh ngày 12/12/2013, cháu khỏe mạnh, phát triển bình thường và hiện tại cháu đang ở với mẹ. Sau khi ly hôn, tôi có nguyện vọng xin được nuôi con. Tôi không yêu cầu anh Hà cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn: Anh Trần Thanh H:

Kể từ khi thụ lý cho đến khi vụ án được đưa ra xét xử, Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự cho anh Trần Thanh H, nhưng anh H vắng mặt không lên Tòa án để làm việc.Vì vậy Tòa án không lấy được lời khai của anh Hà cũng như không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về thủ tục tố tụng và quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng:

- Đối với Thẩm phán: Đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đối với HĐXX: Đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đối với đương sự:

+ Nguyên đơn: Đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70; Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Bị đơn: Không thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70; Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Bích H và anh Trần Thanh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật. Quá trình duy trì cuộc sống hôn nhân, anh chị nảy sinh nhiều mâu thuẫn, kéo dài mà không có biện pháp hòa giải hay ý thức khắc phục. Vì vậy căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị Bích H đối với anh Trần Thanh H.

- Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Trần Trung H, sinh ngày 12/12/2013. Tại bản tự khai cháu Trần Trung H có nguyện vọng xin được ở với mẹ, bản thân chị Hcũng có nguyện vọng xin được nuôi con. Vì vậy sau khi ly cần giao cháu cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi là phù hợp với điều kiện hoàn cảnh và nguyện vọng của chị H và cháu H.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H không yêu cầu anh Hà cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Trần Thanh H mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Vì vậy căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt là phù hợp.

[2] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn và con chung, các quan hệ pháp luật này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C, được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung: Căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở để xác định:

Chị Trần Thị Bích H và anh Trần Thanh H là vợ chồng có đăng ký kết hôn vào ngày 10/01/2013 tại UBND xã C, huyện C trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Quá trình duy trì cuộc sống hôn nhân, theo chị H thì anh chị nảy sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng và đã sống ly thân nhau từ năm 2014 cho đến nay. Nay chị H xác định không còn tình cảm vợ chồng, chị không còn thương yêu chồng, mâu thuẫn giữa hai người là rất trầm trọng, kéo dài, không thể khắc phục và hàn gắn, nếu có cố níu kéo cũng chỉ làm khổ nhau. Vì vậy chị Hcó nguyện vọng được ly hôn với anh Hà. Qua xác minh tại địa phương đã cung cấp; chị H và anh H là vợ chồng có đăng ký kết hôn.Tuy nhiên cuộc sống anh chị xảy ra nhiều mâu thuẫn kéo dài, mặc dù trong thời gian xảy ra mâu thuẫn anh chị được hai bên gia đình và chính quyền địa phương hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả, hiện tại anh chị đã sống ly thân nhau. Nay chị H có đơn xin ly hôn với anh Hà quan điểm của địa phương là đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

[4] Tại phiên tòa: Nguyên đơn chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với anh H.

Hội đồng xét xử xét thấy; mâu thuẫn giữa vợ chồng anh chị là thực tế, rất trầm trọng và kéo dài. Trong thời gian xảy ra mâu thuẫn, mặc dù anh chị đã được hai bên gia đình, họ hàng và chính quyền địa phương động viên, hòa giải nhiều lần nhưng anh chị vẫn không có ý thức để hàn gắn, khắc phục và duy trì cuộc sống hôn nhân. Vì vậy căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H đối với anh H là phù hợp.

- Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Trần Trung H, sinh ngày 12/12/2013, hiện tại cháu đang ở với chị Huyền. Tại bản tự khai cháu Trần Trung H có nguyện vọng xin được ở với mẹ, bản thân chị H cũng có nguyện vọng xin được nuôi con. Về phía anh Hà, quá trình giải quyết không lên Tòa án để làm việc, nên không có căn cứ để giao con cho anh Hà nuôi dưỡng. Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy, để đảm bảo sự phát triển bình thường về mọi mặt của cháu Hiếu, cần giao cho chị Htrực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu Hiếu trưởng thành (đủ 18 tuổi) là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị H không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra xem xét, giải quyết.

[4] Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

* Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; b khoản 2 Điều 227, Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị Bích H.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Bích H được ly hôn với anh Trần Thanh H.

Về con chung: Có 01 con chung là cháu Trần Trung H, sinh ngày 12/12/2013. Giao cháu Trần Trung H cho chị Trần Thị Bích H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu trưởng thành, đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Trần Thị Bích H không yêu cầu anh Trần Thanh H cấp dưỡng nuôi con chung.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc hai bên bố mẹ, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Trần Thanh H được quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được ngăn cản quyền này.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Trần Thị Bích H không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra xem xét, giải quyết.

*Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chị Trần Thị Bích H phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 60AA/2021/0008127, ngày 13/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện CưM’gar, tỉnh Đăk Lăk.

Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 27/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:27/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về