Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 26/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 26/2023/DS-PT NGÀY 20/02/2023 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

Ngày 20 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xét xử phúc thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 74/2022/TLPT- DS ngày 05/01/2023 về “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 42/2022/DS-ST ngày 23/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 58/2023/QĐ-PT ngày 31/01/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1969 (có mặt). Địa chỉ: Thôn P, xã T, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

- Bị đơn:

Ông Nguyễn Công H, sinh năm 1965 (có mặt). 

Anh Nguyễn Công H1, sinh năm 1992 (có mặt).

Cùng địa chỉ: Thôn P, xã T, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đồng thời là người làm chứng: Ông Lưu Vạn Q, sinh năm 1966 (có mặt) Địa chỉ: Thôn P, xã T, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Do có kháng cáo của nguyên đơn là Bà Nguyễn Thị X.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ thì có nội dung vụ án như sau:

Nguyên đơn là Bà Nguyễn Thị X trình bày: Nhà bà và nhà Ông Nguyễn Công H là hàng xóm gần nhau. Hai bên có lối đi riêng không liên quan gì đến nhau nhưng Ông H thường xuyên gây sự như: Ông H xe gạch vỡ đổ trước cổng, lấy thang thúc mái tôn, lấy máy cày húc cổng nhà bà. Bà sang nói chuyện thì Ông H chửi bới, đấm vào người bà nhưng không nặng nên bà không báo chính quyền vì muốn giữ hòa khí hàng xóm hai bên gia đình.

Đến ngày 21/6/2017, khi bà đang cuốc ruộng thì Ông H chạy ra cầm cuốc vạng vào đùi bà làm bà ngã gục xuống ruộng. Bà phải nhập viện và điều trị tại bệnh viện đa khoa huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh trong 07 ngày. Bà có báo công an xã, công an huyện ra nhưng Ông H bỏ về, sự việc không được giải quyết. Mâu thuẫn cứ thế kéo dài từ năm 2017 đến nay.

Đỉnh điểm của sự việc là vào khoảng 4 giờ sáng ngày 29/5/2020, bà đi hái rau ở khu vực đồng Đầm, Thôn P, xã T, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Khi bà đi qua nhà Anh Nguyễn Công H1 thì thấy Anh H1 đang ngồi ở cổng. Bà đang hái được hai mớ rau thì thấy Anh H1 phi xe ra đứng trên bờ chửi: “Con chó, hôm nay bố mày ra đồng mày nói bố mày giết chết ở đồng”. Bà trả lời: “Tao không động đến mày, đêm hôm mày ra giết tao ở đây”. Bà bỏ lên ruộng khác thì Anh H1 cũng bỏ đi. Chồng bà ở nhà chạy ra nói với bà: Học xông vào đạp cổng và nói với Ông Q: “Tao nể mày, không tao giết vợ mày ở đồng rồi”. Một lúc sau. Học lại ra và chửi bà. Lúc này, chồng bà cũng có mặt. Học dùng tay trái tát vào đầu bà một cái rồi túm tóc bà. Bà khua tay thì Học tiếp tục dùng tay phải tát 01 cái vào mặt bà. Ông Q có chạy đến can ngăn. Cùng lúc này, Ông Nguyễn Công H cầm theo 01 thanh gậy gỗ hình chữ nhật dài khoảng 40cm, rộng 4cm, dày 2,3cm vụt một phát vào giữa lưng bà và thúc 01 cái vào mông bên trái của bà. Lúc này, Ông Q quay lại thì Ông H cũng đi lên bờ. Sau đó, Ông Q cõng bà về và đưa ra bệnh viện huyện Yên Phong chụp chiếu. Kết quả bà bị xẹp hai đốt sống phải xuống bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Ninh chụp cộng hưởng từ. Kết quả vẫn là xẹp đốt sống. Bà phải nằm viện từ ngày 29/5/2020 đến ngày 04/6/2020 thì ra viện. Bà về nhà vẫn phải tiếp tục uống thuốc để điều trị.

Do bị ảnh hưởng chấn thương bà không đi cấy được phải ở nhà mất 05 tháng. Chồng bà cũng phải ở nhà chăm sóc bà không đi làm ăn được. Bà phải mướn cấy mất 300.000đ/1 sào. Mặc dù bà bị đánh nhưng gia đình Ông H và Anh H1 không có một câu xin lỗi nào hay thăm hỏi gì bà. Cho đến nay vẫn còn đe dọa bà và gia đình bà.

Bà thấy hành vi của Ông Nguyễn Công H và Anh Nguyễn Công H1 là coi thường pháp luật, gây ảnh hưởng đến sức khỏe và tinh thần của bà. Do vậy, bà khởi kiện đề nghị Tòa án buộc Ông Nguyễn Công H và Anh Nguyễn Công H1 phải bồi thường do hành vi xâm phạm về sức khỏe, danh dự cho bà. Cụ thể số tiền bà yêu cầu Anh H1 và Ông H bồi thường là:

- Tiền viện phí, tiền thuốc trong thời gian điều trị: 5.000.000đ.

- Tiền thuốc theo chỉ dẫn của bác sỹ: 25.000.000đ.

- Tiền xe đi lại trong thời gian điều trị: 1.400.000đ.

- Tiền mất thu nhập trong thời gian điều trị 07 ngày x 200.000đ/ngày= 1.400.000đ.

- Tiền mất thu nhập sau thời gian điều trị 30 ngày x 200.000đ/ngày= 6.000.000đ.

- Tiền mất thu nhập của người thăm nuôi 07 ngày x 300.000đ= 2.100.000đ.

- Tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe: 10.000.000đ.

- Tiền tổn thất tinh thần 10 tháng lương tối thiểu: 14.900.000đ.

Tổng số tiền bà yêu cầu Ông H, Anh H1 bồi thường là: 65.800.000đ.

Bị đơn là Ông Nguyễn Công H và Anh Nguyễn Công H1 trình bày: Giữa hai gia đình có mâu thuẫn từ năm 2017. Nguyên nhân do tranh chấp với nhau về bụi tre. Sau đó, bà X thường xuyên gây sự với gia đình Ông H. Khoảng 4 giờ 30 phút sáng ngày 29/5/2020, do hai nhà cãi nhau từ chiều hôm trước nên Anh H1 không ngủ được và ngồi ở cổng thì bà X đi qua. Khoảng 10 phút sau Anh H1 cầm điện thoại quay phim và bảo bà X: “Bây giờ bà chửi đi”. Bà X chạy lên bãi ruộng trên thì Anh H1 đi về. Anh H1 đi về đến ngõ bảo Ông Q chồng bà X là: “Ông có vợ thì bảo vợ con ông không chửi nhau”. Xong Anh H1 đi về đi làm, 5 phút sau Anh H1 chạy ra đồng thấy bà X đang ở ruộng, Ông Q đứng trên bờ. Giữa Anh H1 và bà X có lời qua tiếng lại nên Anh H1 xuống ruộng túm tóc, tát vào mặt bà X. Khi đó, Ông Q bảo anh đi về thì anh đi về. Ông H thấy Anh H1 chạy ra thì cũng cầm thanh gỗ chạy theo đi đến chỗ bà X thì gặp Anh H1 quay về. Anh H1 nói: “Mẹ suốt đêm không ngủ được” nên Ông H tức giận cầm thanh gỗ xuống ruộng chọc vào mông bà X. Ông không đánh vào lưng, không đá vào chân bà X. Sau đó, Ông H bỏ đi về luôn. Ông có thấy bà X không tự đi được phải được Ông Q cõng về. Việc bà X đi viện, Ông H và Anh H1 không biết nhưng có được thông báo về việc công an huyện Yên Phong trưng cầu giám định thương tích của bà X. Anh H1 có nhờ người thân mang 5.000.000đ đến bồi thường cho bà X nhưng bà X không đồng ý và không nhận. Đối với yêu cầu khởi kiện của bà X, Ông H cho rằng bà X chửi bới gia đình ông nên ông có đánh bà X nên ông không sai. Ông H và Anh H1 đều không đồng ý bồi thường cho bà X. Quá trình giải quyết vụ án, Anh H1 chỉ đồng ý hỗ trợ cho bà X 2.000.000đ vì anh xác định mình cũng có lỗi với bà X. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm Anh H1 không đồng ý bồi thường cho bà X nữa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và là người làm chứng Ông Lưu Vạn Q trình bày: Ông đồng ý với ý kiến trình bày của bà X. Rạng sáng ngày 29/5/2020, ông thấy Anh H1 ra đồng chửi bới và về nhà nói với ông: “Hôm nay tao nể mày không tao giết vợ mày”. Thấy vậy, ông chạy ra đồng thì chỉ thấy bà X ở đó một mình nên ông quay về nhà. Một lúc sau, ông quay ra thì thấy Anh H1 nhảy xuống đánh bà X thì ông chạy xuống đẩy Anh H1 lên được một quãng thì ông thấy Ông H đi lên đường hướng về phía bà X. Ông chạy xuống thì thấy bà X ngã gục mặt xuống ruộng rau. Ông phải cõng bà X về và đưa bà X đi viện chữa trị. Đối với yêu cầu khởi kiện của bà X ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đồng thời là người làm chứng đề nghị Ông H và Anh H1 phải bồi thường tiền mất thu nhập cho người thăm nuôi như đề nghị của bà X theo quy định của pháp luật.

Từ những nội dung trên, bản án sơ thẩm đã căn cứ Điều 26; 35; 39; 147; 262; 264; 271; 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 584; 585; 587; 589; 590; 357 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Bà Nguyễn Thị X.

2. Buộc Ông Nguyễn Công H, Anh Nguyễn Công H1 phải liên đới bồi thường cho Bà Nguyễn Thị X các khoản chi phí hợp lý do sức khỏe bị xâm phạm như sau:

+ Tiền thuê ô tô đi lại là 500.000đ.

+ Tiền viện phí, chi phí khám chữa bệnh là 2.082.000đ.

+ Tiền thuốc theo chỉ dẫn của bác sỹ là 2.082.000đ.

+ Tiền mất thu nhập trong thời gian điều trị là 200.000 đồng/ngày x 07 ngày = 1.400.000đ.

+ Tiền mất thu nhập của Ông Q là người chăm sóc bà X trong thời gian nằm viện là 200.000 đồng/ngày x 07 ngày = 1.400.000đ.

+ Tiền bồi thường tổn thất về tinh thần bằng 03 tháng lương cơ sở do Nhà nước quy định là 1.490.000đ x 3 = 4.470.000đ.

Tổng cộng số tiền phải bồi thường là 13.043.000đ., trong đó bồi thường cho bà X là 11.643.000đ, bồi thường cho Ông Q là 1.400.000đ. Cụ thể, Ông H, Anh H1 mỗi người phải bồi thường cho bà X số tiền 5.821.500đ; bồi thường cho Ông Q số tiền là 700.000đ.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

Sau khi bản án sơ thẩm xử ngày 02/12/2022, nguyên đơn là Bà Nguyễn Thị X có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo.

Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý phúc thẩm cho đến phần tranh luận tại phiên tòa là đảm bảo theo đúng trình tự, quy định của pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của Bà Nguyễn Thị X nộp trong hạn luật định, đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng nên được xem xét giải quyết theo trình tự xét xử phúc thẩm.

[2]. Về nội dung: Theo như các đương sự trình bày thì giữa bà X và Ông H, Anh H1 có mâu thuẫn từ trước nên ngày 29/5/2020, giữa bà X với Ông H, Anh H1 đã xảy ra xô xát, cụ thể: Anh H1 đã có hành vi dùng tay trái tát vào đầu và túm tóc bà X. Ông H có dùng một thanh gậy gỗ hình chữ nhật vụt một cái vào giữa lưng và thúc một cái vào mông bên trái của bà X khiến bà X ngã ra ruộng. Sau khi sự việc xảy ra, bà X phải đi viện điều trị. Theo kết luận ban đầu thì thương tích của bà X là 28%. Sau đó, giám định lần hai thì tỉ lệ thương tích cuối cùng của bà X là 0%. Tuy nhiên, sau khi sự việc xô xát xảy ra giữa bà X với Anh H1, Ông H thì Anh H1, Ông H không đền bù gì bà X nên bà X khởi kiện đề nghị Ông H, Anh H1 bồi thường cho bà số tiền 65.800.000đ. Bản án sơ thẩm đã xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà X.

Sau khi bản án sơ thẩm xử bà X kháng cáo toàn bộ bản án vì bà X cho rằng bản án sơ thẩm tuyên buộc Ông H, Anh H1 phải bồi thường cho bà số tiền hơn 12 triệu là không đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của bà. Xét kháng cáo của bà X thì thấy: Ngày 29/5/2020, giữa bà X và Ông H, Anh H1 có xảy ra xô xát. Sau khi sự việc xô xát xảy ra bà X có phải đi viện điều trị. Tại thời điểm bà X mới xảy ra xô xát với Ông H, Anh H1 thì theo kết luận giám định pháp y thì thương tích của bà X là 28%. Sau đó, Cơ quan điều tra công an huyện Yên Phong đã ra quyết định trưng cầu giám định lại thì thương tật của bà X là 0% và việc bà X bị xẹp hai đốt sống D12 và L1 là tổn thương xảy ra trước ngày 29/5/2020 là ngày bà bị Ông H và Anh H1 đánh. Tuy nhiên, cả Ông H và Anh H1 đều thừa nhận có xảy ra xô xát với bà X dẫn đến bà X phải đi viện điều trị tại bệnh viện. Bà X đề nghị Tòa án buộc Ông H, Anh H1 bồi thường cho bà số tiền 65.800.000đ nhưng lại không đưa ra được hóa đơn chứng từ cũng như căn cứ khác để chứng minh cho yêu cầu của bà là phù hợp nên bản án sơ thẩm xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà X buộc Ông H và Anh H1 phải bồi thường cho bà X những khoản chi phí thực tế hợp lý và chi phí có hóa đơn chứng từ là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật nên kháng cáo của bà X là không có căn cứ chấp nhận cần bác toàn bộ kháng cáo của bà X.

Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà X phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; căn cứ Điều 26; 35; 39; 147; 262; 264; 271; 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 584; 585; 587; 589; 590; 357 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, giữ nguyên bản án sơ thẩm xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Bà Nguyễn Thị X.

2. Buộc Ông Nguyễn Công H, Anh Nguyễn Công H1 phải liên đới bồi thường cho Bà Nguyễn Thị X các khoản chi phí hợp lý do sức khỏe bị xâm phạm như sau:

+ Tiền thuê ô tô đi lại là 500.000đ.

+ Tiền viện phí, chi phí khám chữa bệnh là 2.082.000đ.

+ Tiền thuốc theo chỉ dẫn của bác sỹ là 2.082.000đ.

+ Tiền mất thu nhập trong thời gian điều trị là 200.000 đồng/ngày x 07 ngày = 1.400.000đ.

+ Tiền mất thu nhập của Ông Q là người chăm sóc bà X trong thời gian nằm viện là 200.000 đồng/ngày x 07 ngày = 1.400.000đ.

+ Tiền bồi thường tổn thất về tinh thần bằng 03 tháng lương cơ sở do Nhà nước quy định là 1.490.000đ x 3 = 4.470.000đ.

Tổng cộng số tiền phải bồi thường là 13.043.000đ, trong đó bồi thường cho bà X là 11.643.000đ, bồi thường cho Ông Q là 1.400.000đ. Cụ thể, Ông H, Anh H1 mỗi người phải bồi thường cho bà X số tiền 5.821.500đ; bồi thường cho Ông Q số tiền là 700.000đ.

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu lãi suất đối với số tiền chưa thi hành án theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Về án phí:

- Trả lại Bà Nguyễn Thị X số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.650.000đ theo biên lai thu số AA/2020/0001310 ngày 05/8/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

- Bà Nguyễn Thị X phải chịu 300.000đ án phí dân sự phúc thẩm. Xác nhận bà X đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm tại biên lai thu số 0004527 ngày 02/12/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Phong.

- Ông Nguyễn Công H, Anh Nguyễn Công H1 mỗi người phải chịu 326.075đ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự.

Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 26/2023/DS-PT

Số hiệu:26/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về