Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 50/2022/DSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 50/2022/DSPT NGÀY 29/06/2022 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

Ngày 15 và 29 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xét xử phúc thẩm vụ án thụ lý số: 58/2022/TLPT- DS ngày 14/02/2022 về “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 06/2021/DS-ST ngày 27/10/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 68/2022/QĐ-PT ngày 12/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trương Đức Gi, sinh năm 1976 (có mặt). HKTT: Thôn Ph, xã V, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh Gi: Ông Nguyễn Văn Hải- Trợ giúp viên pháp lý trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bắc Ninh (có mặt).

- Bị đơn: Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam.

Đa chỉ: Tháp BIDV, số 35 Hàng Vôi, Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Đức T - Chủ tịch hội đồng quản trị (vắng mặt).

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Ngọc S - Giám đốc Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam, chi nhánh Bắc Ninh (vắng mặt).

Người được ủy quyền lại: Ông Nguyễn Văn Q - Trưởng phòng quản lý rủi ro - Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chi nhánh Bắc Ninh ( có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh (vắng mặt).

2. Bà Ngô Thị H, sinh năm 1985( vắng mặt). HKTT: Thôn Ph, xã V, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh.

Người đại diện theo ủy quyền của bà H: Ông Trương Đức Gi (có mặt). HKTT: Thôn Ph, xã V, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh.

3. Ông Ngô Diên Ch, sinh năm 1962 (vắng mặt).

HKTT: Khu phố H, phường H, thành phố T, tỉnh Bắc Ninh.

4. Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Bắc Ninh.

Đa chỉ: Số 1 đường Nguyễn Đăng Đạo, phường Suối Hoa, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn Q - Trưởng phòng quản lý (có mặt).

5. Phòng giao dịch Khu công nghiệp Yên Phong - Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chi nhánh Bắc Ninh.

Người đại diện: Ông Vũ Quang T - Phó giám đốc phụ trách PGD KCN Yên Phong (vắng mặt).

Người làm chứng:

1. Ông Đinh Xuân Ngh – Trưởng phòng giao dịch huyện Tiên Du – Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Bắc Ninh (vắng mặt).

2. Ông Nguyễn Anh T – Nhân viên phòng giao dịch Khu công nghiệp Yên Phong – Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Bắc Ninh (vắng mặt).

3. Bà Đào Thị H, sinh năm 1974 (vắng mặt).

Đa chỉ: Số nhà 20, đường L, phường K, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh.

4. Bà Ngô Thị Thu H – Nhân viên phòng giao dịch Khu công nghiệp Yên Phong - Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam, chi nhánh Bắc Ninh (vắng mặt).

5. Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1986 (vắng mặt). HKTT: Thôn Ph, xã V, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh.

Do có kháng cáo của nguyên đơn là anh Trương Đức Gi.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm và các tài liệu trong hồ sơ thì vụ án có nội dung như sau: Nguyên đơn anh Trương Đức Gi trình bày: Ngày 27/11/2007, anh Gi và vợ là Ngô Thị H có ký hợp đồng tín dụng ngắn hạn số 2036/07/HĐ với phòng giao dịch khu công nghiệp Yên Phong thuộc chi nhánh ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Bắc Ninh ( sau đây gọi tắt là ngân hàng). Theo hợp đồng này, vợ chồng anh Gi vay của ngân hàng số tiền 70.000.000đ với mục đích sản xuất gỗ, thời hạn, lãi suất được quy định trong hợp đồng. Để đảm bảo khoản vay, vợ chồng anh Gi ký hợp đồng thế chấp với ngân hàng với tài sản thế chấp là thửa đất số 391, tờ bản đồ số 12, diện tích 146m2 tại ngõ Chùa, thôn Phù Xá, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Đến thời hạn trả nợ nhưng vợ chồng anh Gi không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng nên ngân hàng đã khởi kiện vợ chồng anh ra Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh. Tại bản án số 01/2012/KDTM- ST ngày 17/02/2012 đã tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ngân hàng buộc vợ chồng anh trả cho ngân hàng tổng số tiền 115.078.862đ. Nếu vợ chồng anh không thanh toán được số nợ thì toàn bộ giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất sẽ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bán đấu giá theo quy định của pháp luật để thanh toán nợ. Vợ chồng anh Gi đã được nhận bản án nhưng không kháng cáo.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật do hoàn cảnh khó khăn nên anh Gi chưa thể trả được số nợ cho ngân hàng. Ngân hàng đã làm đơn đề nghị Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh thi hành bản án. Ngày 08/5/2012, Cục trưởng cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh đã ra quyết định thi hành án số 126/QĐ- CTHADS và ngày 11/6/2012 ra quyết định thi hành án số 22/QĐTĐYC- CTHADS.

Năm 2017, anh Gi thu xếp vay mượn bạn bè, người thân được 70.000.000đ để trả nợ gốc cho ngân hàng nhưng với điều kiện anh được ngân hàng miễn giảm toàn bộ tiền lãi thì người thân, bạn bè mới đem tiền trả cho ngân hàng.

Khong tháng 02 năm 2017, anh Gi có làm đơn đề nghị ngân hàng miễn giảm toàn bộ tiền lãi và lãi phạt cho anh. Sau khi xem xét đơn, ngân hàng đã ra quyết định số 2691/QĐ- BIDV ngày 10/5/2017 về việc miễn giảm lãi đối với ông Gi và gửi về ngân hàng đầu tư phát triển Việt Nam chi nhánh Bắc Ninh để triển khai thực hiện. Theo quyết định này ngân hàng sẽ miễn toàn bộ số dư nợ lãi tính đến ngày 28/02/2017 cho vợ chồng anh Gi với điều kiện anh Gi trả toàn bộ số nợ gốc 70.000.000đ trước ngày 31/5/2017.

Nhưng do ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam, chi nhánh Bắc Ninh không gửi quyết định nào cho anh nên anh không biết để thực hiện việc trả nợ. Đến khoảng tháng 6, tháng 7 năm 2017, anh Gi mới được biết về quyết định miễn giảm lãi trên. Khi đó, quyết định đã hết hiệu lực và anh Gi không được miễn giảm lãi và không trả được nợ cho ngân hàng.

Do không trả được nợ cho ngân hàng nên Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh đã bán đấu giá thửa đất của vợ chồng anh với giá 92.660.000đ. Ngày 27/11/2019, Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh đã ra quyết định về việc cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 01/QĐ- CTHADS và thông báo về việc cưỡng chế thi hành án số 197/TB-THADS. Sáng 20/12/2019, Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh đã cho người phá khóa nhà và tiến hành cưỡng chế thu hồi thửa đất cùng nhiều tài sản trên đất của gia đình anh để chuyển giao cho người khác.

Với những nội dung trên, anh Gi cho rằng do ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam, chi nhánh Bắc Ninh không gửi quyết định miễn giảm lãi dẫn đến việc anh không trả được nợ đúng hạn cho ngân hàng nên Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh đã tiến hành bán đấu giá, cưỡng chế và bàn giao nhà dất của anh cho người khác gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình anh. Do vậy, anh khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh buộc ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Bắc Ninh phải bồi thường toàn bộ thiệt hại mà gia đình anh phải chịu do ngân hàng không giao quyết định miễn giảm lãi cho gia đình anh với số tiền khoảng 1.280.000.000đ và buộc ngân hàng phải xóa toàn bộ số nợ của gia đình anh theo quy định của pháp luật.

Tại đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện, anh Gi đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh buộc ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Bắc Ninh, Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh bồi thường cho gia đình anh số tiền thuê nhà là 30.000.000đ và số tiền chi phí, công sức, thời gian đã bỏ ra để đi lại, đơn thư là 345.000.000đ. Tổng số tiền yêu cầu bồi thường bổ sung là 375.000.000đ.

Trong quá trình làm việc tại Tòa án cấp sơ thẩm, anh Gi đã rút yêu cầu Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh phải bồi thường cho anh.

Tại phiên tòa sơ thẩm, anh Gi trình bày do không biết về quyết định số 2691 nên không trả được số tiền 70.000.000đ trong thời hạn theo quyết định này. Sau đó, anh Gi có mang tiền đến phòng giao dịch khu công nghiệp Yên Phong để trả cho ngân hàng nhưng giám đốc phòng giao dịch khi đó là ông Nghiệp không nhận, không làm việc với anh. Sự việc trên anh có video và ảnh chụp để chứng minh. Anh Gi đã cung cấp cho Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh một USB có chứa đoạn video thể hiện việc anh Gi có mang tiền đến phòng giao dịch khu công nghiệp Yên Phong trả nợ nhưng ngân hàng không nhận, không làm việc.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày: Ngày 27/11/2007, giữa phòng giao dịch khu công nghiệp Yên Phong- BIDV chi nhánh Bắc Ninh và ông Gi có ký một hợp đồng tín dụng số 0236/07/HĐ. Theo hợp đồng này, BIDV cho anh Gi vay số tiền 70.000.000đ. Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của thửa đất số 391, tờ bản đồ số 12, diện tích 146m2 tại ngõ Chùa, thôn Phù Xá, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh và tài sản gắn liền trên đất. Đến hạn trả nợ nhưng anh Gi không trả được nợ, đã nhiều lần xin gia hạn với ngày trả nợ cuối cùng là 27/5/2009 nhưng anh Gi vẫn không trả nợ được cho ngân hàng. Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam đã khởi kiện anh Gi ra Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh. Tại bản án số 01/2012/KDTM- ST ngày 17/02/2012, đã xử buộc anh Gi trả cho ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam số tiền 115.078.862đ. Nếu anh Gi không thực hiện thì toàn bộ giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo giấy chứng nhận số AI812264 sẽ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức bán đấu giá theo quy định của pháp luật để thanh toán nợ cho ngân hàng.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, anh Gi vẫn không trả tiền cho ngân hàng do đó ngân hàng đã có đơn yêu cầu thi hành án gửi Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh đề nghị tổ chức thi hành bản án số 01/2021/KDTM- ST ngày 17/02/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh. Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh đã ra quyết định thi hành án và có các quyết định cưỡng chế, kê biên, xử lý tài sản, cưỡng chế thi hành án.

Đến ngày 02/3/2017, anh Gi làm đơn đề nghị gửi ngân hàng về việc xin giảm, miễn lãi. Sau khi xem xét đơn đề nghị và các tài liệu liên quan theo trình tự của ngân hàng, ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam đã ra quyết định miễn giảm lãi số 2691/QĐ- BIDV ngày 10/5/2017 với nội dung miễn giảm toàn bộ lãi, lãi phạt với điều kiện sau khi anh Gi trả nợ toàn bộ số nợ gốc 70.000.000đ trước ngày 31/5/2017. Thực hiện quyết định trên, phòng giao dịch khu công nghiệp Yên Phong- BIDV Bắc Ninh đã ban hàng công văn số 125/TB- BIDVBN ngày 12/5/2017 và mời ông Gi lên làm việc để thông báo nội dung của quyết định 2691. Tại các buổi làm việc, ông Gi không hợp tác, không ký vào các biên bản làm việc, biên bản giao của ngân hàng. Sau buổi làm việc, ông Gi không thanh toán số nợ gốc 70.000.000đ. Phòng giao dịch khu công nghiệp Yên Phong- BIDV Bắc Ninh đã liên hệ và nhờ trưởng thôn Phù Xá tác động anh Gi trả nợ nhưng không được.

Do anh Gi không thực hiện trả nợ nên ngày 27/7/2017, đại diện ngân hàng đã làm việc với chấp hành viên đề nghị tiếp tục thực hiện việc bán đấu giá tài sản theo quy định. Tài sản thế chấp của anh Gi đã được cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh tiến hành bán đấu giá, cưỡng chế giao cho người trúng đấu giá.

Nay anh Gi khởi kiện đề nghị Tòa án buộc ngân hàng phải bồi thường thiệt hại cho anh Gi do không giao cho anh Gi quyết định miễn giảm lãi là không có cơ sở nên ngân hàng đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Gi.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam, chi nhánh Bắc Ninh trình bày: Ngân hàng đồng ý với quan điểm của bị đơn là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam và đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là phòng giao dịch khu công nghiệp Yên Phong- ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam, chi nhánh Bắc Ninh đề nghị Tòa án căn cứ quy định của pháp luật để giải quyết.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Ngô Thị H trình bày: Bà nhất trí với ý kiến của nguyên đơn. Bà đề nghị Tòa án xem xét để đảm bảo quyền lợi của gia đình bà. Đề nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh trình bày: Ngày 02/11/2020, Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh có công văn số 16 gửi Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh về việc xác định Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và đề nghị cử người đại diện tham gia tố tụng tại Tòa án. Ngày 11/11/2020, Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh đã có công văn số 1788 và cho rằng vụ kiện tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng giữa anh Trương Đức Gi và ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam, chi nhánh Bắc Ninh là vụ việc khác với việc Cục thi hành án dân sự tổ chức thi hành án bản án số 01/2012/KDTM- ST ngày 17/02/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh. Do vậy, Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh từ chối tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Cục thi hành án dân sự đã cung cấp tài liệu liên quan đến việc tổ chức thi hành bản án số 01/2012/KDTM- ST ngày 17/02/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh và việc bán đấu giá tài sản là thửa đất số 391, tờ bản đồ số 12, diện tích 146m2 cùng tài sản gắn liền với đất là nhà cấp 4, diện tích 57,6m2 tại ngõ Chùa, thôn Phù Xá, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Tại công văn số 1252/CV- THADS ngày 11/10/2021 Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh trình bày về nội dung thi hành bản án số 01/2012/KDTM- ST ngày 17/02/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh và cho rằng vụ kiện tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng giữa nguyên đơn là anh Trương Đức Gi và bị đơn là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam, chi nhánh Bắc Ninh là vụ kiện liên quan đến việc ngân hàng không giao quyết định miễn giảm lãi cho gia đình anh Gi là một việc hoàn toàn khác. Việc ngân hàng giao hay không giao quyết định miễn giảm lãi cho gia đình ông Gi không ảnh hưởng đến quá trình tổ chức thi hành bản án. Bởi tại thời điểm tổ chức thi hành án, anh Gi không chỉ phải thi hành khoản trả ngân hàng mà còn thi hành cả khoản án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.

Người làm chứng là ông Đinh Xuân Ngh, ông Nguyễn Anh T cùng trình bày: Sau khi nhận được quyết định miễn giảm lãi đối với ông Trương Đức Gi, phòng giao dịch khu công nghiệp Yên Phong ngân hàng BIDV đã thông báo cho ông Gi lên làm việc và thông báo nội dung miễn, giảm lãi, điều kiện miễn giảm lãi cho khách hàng. Tuy nhiên, trong các buổi làm việc, anh Gi đều không ký vào biên bản. Phòng giao dịch khu công nghiệp Yên Phong có nhờ ông Đại là trưởng thôn Phù Xá động viên ông Gi nộp tiền theo đúng thời hạn miễn giảm lãi. Ông Gi trình bày có mang tiền đến trả cho ngân hàng nhưng phòng giao dịch không nhận, không làm việc là không đúng.

Người làm chứng là ông Nguyễn Văn Đ trình bày: Đầu năm 2017, anh Gi có nhờ ông nói chuyện với ngân hàng BIDV về việc xin miễn giảm lãi. Ông Đại đồng ý và đã trao đổi ngân hàng BIDV về việc xin miễn giảm lãi cho anh Gi với lý do anh Gi là hộ nghèo. Khoảng tháng 5 năm 2017, ông Đại được ngân hàng thông báo về việc BIDV có quyết định miễn giảm lãi cho anh Gi và nhờ ông Đại thông báo cho anh Gi về việc miễn giảm lãi và mời anh Gi lên ngân hàng làm việc. Ông Đại đã gọi điện cho anh Gi và cán bộ ngân hàng cho biết anh Gi có lên làm việc nhưng không ký biên bản, không thực hiện thanh toán và nhờ ông Đại động viên anh Gi trả nợ trong thời hạn miễn giảm lãi. Ông Đại đồng ý và nhiều lần liên lạc động viên anh Gi trả nợ gốc cho ngân hàng.

Ông Vũ Quang Tuấn- Phó giám đốc phụ trách phòng giao dịch khu công nghiệp Yên Phong- ngân hàng BIDV xác định những người xuất hiện trong đoạn video anh Gi cung cấp cho Tòa án bao gồm: Chị Đào Thị H hiện đang công tác tại phòng kế hoạch tài chính- BIDV Bắc Ninh; chị Ngô Thị Thu H hiện đang công tác tại phòng giao dịch khu công nghiệp Yên Phong- BIDV Bắc Ninh. Đồng chí bảo vệ xuất hiện trong đoạn video hiện không còn làm việc tại phòng giao dịch và ngân hàng cũng không biết đang ở đâu.

Người làm chứng là bà Đào Thị H, bà Ngô Thị Thu H trình bày: Các bà không biết nội dung làm việc giữa ông Nghiệp, ông Tuấn với ông Gi như thế nào. Khi ông Gi xuống khu quầy của phòng giao dịch khu công nghiệp Yên Phong- BIDV Bắc Ninh thì có nói và dùng điện thoại quay hình nhưng không thấy ông Gi mang tiền hoặc đưa tiền cho nhân viên tại quầy yêu cầu thu để trả nợ cho ngân hàng.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết buộc ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam phải bồi thường cho ông Gi các khoản tiền sau:

- Tiền chênh lệch giá trị tài sản là thửa đất số 391, tờ bản đồ số 12, diện tích 146m2 tại ngõ Chùa, thôn Phù Xá, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh và tài sản gắn liền với đất so với giá bán đấu giá là 92.660.000đ. Cụ thể: Giá trị thửa đất là 1.752.000.000đ; giá trị cây trên đất là 1.790.000đ; giá trị căn nhà cấp 4 là 54.726.000đ. Tổng cộng giá trị phải bồi thường là: 1.752.000.000đ+ 1.790.000đ+54.726.000- 92.660.000đ= 1.715.856.000đ.

- Khoản tiền mà gia đình ông Trương Đức Gi phải thuê nhà sinh sống đến nay là 69.350.000đ.

- Khoản tiền ông Gi bỏ ra để đi lại khiếu kiện, đơn thư từ năm 2017 đến nay là 345.000.000 đồng.

- Ông Gi cho rằng việc bị cưỡng chế kê biên tài sản thi hành án đã ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của ông và gia đình nên đề nghị Ngân hàng phải bồi thường danh dự, uy tín, nhân phẩm cho ông Trương Đức Gi theo quy định của pháp luật.

- Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam phải xóa toàn bộ khoản nợ mà ông Trương Đức Gi còn nợ ngân hàng.

Ngoài ra ông Gi đề nghị Ngân hàng phải trả số tiền là 4.000.000 đồng là tiền ông tạm ứng chi phí thủ tục tố tụng tại tòa án.

Về yêu cầu đối với Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh, ông Gi giữ nguyên quan điểm tại phiên hợp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngày 14/10/2021 xin rút yêu cầu đối với Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh.

Từ những nội dung trên bản án sơ thẩm đã căn cứ các Điều 584; 588 Bộ luật dân sự; Điều 26; 35; 39; 147; 184; 185; 220; 227; 228; 245; 254; 262; 266; 271;

273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về thu nộp quản lý, sử dụng án phí lệ phí Tòa án xử:

1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện và yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông Trương Đức Gi về yêu cầu Tòa án buộc ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam phải trả ông số tiền bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi của ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Bắc Ninh không giao cho ông quyết định miễn giảm lãi số 2691 ngày 10/5/2017 của ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên chi phí xem xét thẩm định, án phí, nghĩa vụ thi hành án của các đương sự.

Sau khi xử sơ thẩm, ngày 05/11/2021, ông Trương Đức Gi có đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 06 ngày 27/10/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu ủa ông Trương Đức Gi.

Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn trình bày, tranh luận giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo. Nguyên đơn cho rằng anh có làm việc với Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh và có xuất trình cho Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh quyết định miễn giảm lãi của ngân hàng vì thời điểm đó anh mới nhận được quyết định miễn giảm lãi của ngân hàng. Hội đồng xét xử đã quyết định tạm ngừng phiên tòa để các đương sự cung cấp chứng cứ bảo vệ quyền lợi cho mình.

Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý phúc thẩm cho đến phần tranh luận tại phiên tòa là đảm bảo theo đúng trình tự, quy định của pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm xử và miễn án phí dân sự sơ thẩm và dân sự phúc thẩm cho anh Gi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của anh Trương Đức Gi nộp trong hạn luật định, đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng nên được xem xét giải quyết theo trình tự xét xử phúc thẩm.

[2]. Về nội dung: Ngày 27/11/2007, giữa phòng giao dịch khu công nghiệp Yên Phong thuộc chi nhánh ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Bắc Ninh và anh Gi có ký một hợp đồng tín dụng. Theo hợp đồng này anh Gi vay của ngân hàng số tiền 70.000.000đ. Để đảm bảo cho khoản vay của mình anh Gi ký với ngân hàng một hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất với tài sản thế chấp là quyền sử dụng thửa đất số 391, tờ bản đồ số 13, diện tích 146m2 ti ngõ Chùa, thôn Phù Xá, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh và các tài sản gắn liền trên đất. Sau đó, đến thời hạn trả nợ theo hợp đồng tín dụng nhưng anh Gi không trả được. Ngân hàng đã nhiều lần đôn đốc anh Gi trả nợ nhưng anh Gi vẫn không trả được nên ngân hàng đã khởi kiện anh Gi ra Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh. Tại bản án số 01/2012/KDTM- ST ngày 17/02/2012 đã xử: Buộc anh Gi thanh toán trả cho ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, chi nhánh Bắc Ninh tổng số tiền là 115.078.862đ, trong đó nợ gốc là 70.000.000đ; nợ lãi là 33.394.550đ; lãi phạt quá hạn: 11.684.312đ. Nếu anh Gi không thực hiện nghĩa vụ thanh toán trả nợ thì toàn bộ giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 391, tờ bản đồ số 13, diện tích 146m2 và tài sản gắn liền với đất là nhà cấp 4, diện tích 57,6m2 tại ngõ Chùa, thôn Phù Xá, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AI 812264 do Ủy ban nhân dân huyện Yên Phong cấp ngày 30/10/2007 cho chủ sử dụng đất là anh Trương Đức Gi sẽ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bán đấu giá theo quy định của pháp luật để thanh toán trả nợ ngân hàng; anh Gi phải chịu 5.753.900đ án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.

Anh Gi không kháng cáo. Khi bản án có hiệu lực pháp luật, ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam có đơn yêu cầu thi hành án gửi Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh đề nghị thi hành bản án số 01/2012/KDTM- ST ngày 17/02/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh. Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh đã ban hành các quyết định thi hành án đối với anh Gi về việc thi hành các quyết định của bản án số 01/2012/KDTM- ST ngày 17/02/2012.

Sau khi có quyết định thi hành án, ngày 20/8/2012, Cục thi hành án ra quyết định cưỡng chế, kê biên, xử lý tài sản thế chấp của anh Trương Đức Gi và chị Ngô Thị H với tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 391, tờ bản đồ số 13, diện tích 146m2 tại thôn Phù Xá, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Ngày 04/12/2012, Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh ký hợp đồng bán đấu giá tài sản với công ty cổ phần đấu giá Kinh Bắc để bán đấu giá tài sản trên để thi hành án.

Cho đến ngày 02/3/2017, anh Gi làm đơn đề nghị miễn, giảm lãi và bản cam kết gửi ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam, chi nhánh Bắc Ninh với nội dung xin miễn giảm toàn bộ lãi và phí quá hạn và nếu được chấp thuận xin cam kết sẽ trả bộ nợ gốc trước ngày 31/3/2017. Sau khi xem xét các điều kiện của anh Gi, ngày 10/5/2017 ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư phát triển Việt Nam ban hành quyết định số 2691 về việc miễn, giảm lãi đối với khách hàng Trương Đức Gi, theo quyết định này anh Gi sẽ được giảm toàn bộ số dư nợ lãi bao gồm cả lãi trong hạn, lãi quá hạn, số tiền tạm tính đến thời điểm ngày 28/02/2017 là 113.787.548đ sau khi khách hàng thực hiện trả toàn bộ nợ gốc là 70.000.000đ. Điều kiện miễn, giảm lãi là anh Gi thực hiện trả hết nợ gốc trước ngày 31/5/2017. Sau khi nhận được quyết định số 2691 của ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam, ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư phát triển Việt Nam cụ thể là phòng giao dịch khu công nghiệp Yên Phong đã có công văn số 125 ngày 12/5/2017 gửi anh Gi và mời anh Gi lên làm việc. Phía ngân hàng cho rằng anh Gi đã được mời lên làm việc nhưng anh Gi không lên còn phía anh Gi cho rằng anh không được mời lên làm việc nhưng anh Gi không cung cấp được chứng cứ gì cho việc này còn ngân hàng cũng không có tài liệu nào chứng minh về việc đã giao cho anh Gi công văn số 125 về việc miễn giảm lãi nhưng có lời trình bày của ông Đại là trưởng thôn nơi anh Gi cư trú cùng một số tài liệu thì có đủ căn cứ chứng minh việc ngân hàng có thông báo cho anh Gi nội dung công văn của ngân hàng về việc miễn giảm lãi theo công văn số 2691 của ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam. Do có việc ngân hàng thông báo cho anh Gi về nội dung công văn 2691 nên việc anh Gi khởi kiện ngân hàng về việc ngân hàng không giao cho anh thông báo miễn giảm lãi nên làm thiệt hại cho anh là không có cơ sở.

Do anh Gi không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng nên ngày 02/11/2017 Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh đã tổ chức bán đấu giá tài sản của anh Gi là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của thửa đất số 391, tờ bản đồ số 13, diện tích 146m2 ti thôn Phù Xá, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh là tài sản anh Gi đã ký hợp đồng thế chấp với ngân hàng để đảm bảo khoản vay của mình với số tiền 92.660.000đ.

Anh Gi cho rằng việc cơ quan thi hành án bán tài sản của anh giá quá thấp so với giá thị trường. Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh đã có văn bản trả lời về việc này tại công văn số 1586 ngày 08/10/2020: “Sau khi hết thời gian thông báo bán đấu giá, do tài sản không có người đăng ký mua, không có người tham gia đấu giá. Thực hiện theo quy định tại Điều 104 về xử lý tài sản bán đấu giá không thành, để tiếp tục bán đấu giá, chấp hành viên ban hành quyết định giảm giá tài sản. Qua nhiều lần bán đấu giá nhưng không có người đăng ký mua, không có người tham gia đấu giá, tài sản giảm giá chỉ còn 92.651.000đ. Tại phiên đấu giá ngày 02/11/2017 tài sản được bán đấu giá thành với giá là 92.660.000đ”. Như vậy, có thể thấy Cục thi hành án dân sự đã tổ chức bán đấu giá tài sản của anh Gi đúng các quy định của pháp luật.

Anh Gi khởi kiện yêu cầu ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư phát triển Việt Nam bồi thường cho anh các thiệt hại khác như tiền thuê nhà, tiền chi phí đi lại đơn thư khiếu kiện, tiền bồi thường danh dự, uy tín, khoản nợ ngân hàng còn phải chịu...nhưng anh không đưa ra được các tài liệu chứng minh về các thiệt hại này của anh nên Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu này của anh là có căn cứ.

Xét kháng cáo của anh Gi thì thấy:

- Thứ nhất anh Gi kháng cáo cho rằng bản án sơ thẩm xử đã vi phạm tố tụng nghiêm trọng là Tòa án không tiến hành thẩm định định giá tài sản là thửa đất số 391, tờ bản đồ số 13, diện tích 146m2 và tài sản gắn liền với đất là nhà cấp 4 diện tích 57,6m2 tại ngõ Chùa, thôn Phù Xá, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh và bản án sơ thẩm không đưa Cục thi hành án dân sự Bắc Ninh, trung tâm đấu giá, người mua đấu giá vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Xét kháng cáo này của anh Gi thì thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã tạm ngừng phiên tòa vào ngày 25/02/2021 sau đó đến ngày 08/4/2021, Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh đã tiến hành xem xét thẩm định, định giá tài sản là thửa đất nêu trên (thể hiện tại bút lục 259-265). Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm đã đưa Cục thi hành án dân sự vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và Tòa án cấp sơ thẩm có văn bản đề nghị Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh trả lời các vấn đề liên quan đến vụ án và Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh có văn bản trả lời. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 06/2021/DS- ST ngày 27/10/2021, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn đưa Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh vào tham gia tố tụng.

Đi với kháng cáo của anh Gi cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa trung tâm đấu giá, người mua tài sản đấu giá tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy: Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, anh Gi khởi kiện ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư phát triển Việt Nam, chi nhánh Bắc Ninh về hành vi không giao quyết định miễn giảm lãi cho anh dẫn đến anh bị thiệt hại nên anh khởi kiện ngân hàng bồi thường cho anh những thiệt hại do hành vi không giao quyết định của ngân hàng gây nên. Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Do vậy xác định trung tâm đấu giá, và người mua tài sản đấu giá không liên quan gì đến vụ án khi Tòa án giải quyết nên Tòa án cấp sơ thẩm không đưa những người này vào tham gia tố tụng là đúng quy định tại khoản 4 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Thứ hai, anh Gi kháng cáo cho rằng anh khởi kiện yêu cầu ngân hàng bồi thường cho anh số tiền 2.225.076.000đ vì Ngân hàng có lỗi là không giao quyết định số 2691 ngày 10/5/2017 của Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam cho anh dẫn đến anh không biết được việc anh được miễn toàn bộ lãi và phải trả tiền gốc cho ngân hàng trước ngày 31/5/2017 nên anh không trả được tiền cho ngân hàng dẫn đến anh bị bán đấu giá tài sản anh thế chấp với Ngân hàng. Như đã phân tích ở trên, tại quyết định số 2691 tại mục nơi nhận không có khách hàng là người nhận. Tuy nhiên, sau khi nhận được quyết định này thì ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Bắc Ninh đã ban hành công văn số 125 ngày 12/5/2017 và mời anh Gi lên làm việc nhưng anh Gi không lên và khi anh Gi lên làm việc anh Gi không hợp tác không ký biên bản làm việc phía ngân hàng cũng đã lập biên bản về việc này. Không những thế phía Ngân hàng đã nhờ ông Đại là trưởng thôn thông báo cho anh Gi về quyết định 2691 và nội dung công văn 125 của ngân hàng nhưng anh Gi vẫn không thực hiện. Do đó, lỗi không phải của phía Ngân hàng nên việc anh Gi khởi kiện ngân hàng là không có cơ sở và căn cứ để chấp nhận.

Tại phiên tòa ngày 15/6/2022, anh Gi cho rằng anh nhận được quyết định miễn giảm lãi của Ngân hàng muộn nên ngay sau khi nhận được quyết định miễn giảm lãi của Ngân hàng anh đã đến Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh để làm việc. Hội đồng xét xử đã tạm ngừng phiên tòa để anh Gi cung cấp tài liệu, chứng cứ thể hiện anh làm việc với Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh về việc anh mới nhận được quyết định miễn giảm lãi của Ngân hàng. Tại phiên tòa ngày hôm nay, anh Gi cung cấp một đơn đề nghị gửi Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh nhưng nội dung đơn này không thể hiện gì về việc anh Gi mới nhận được quyết định miễn giảm lãi của Ngân hàng mà đơn này của anh Gi chỉ thể hiện anh đề nghị Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh miễn các loại chi phí cho anh. Do vậy, không có căn cứ nào thể hiện anh Gi đã đến Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh để làm việc theo quyết định miễn giảm lãi của Ngân hàng.

Từ những phân tích trên có thể thấy bản án sơ thẩm xử bác yêu cầu khởi kiện của anh Gi là đúng quy định của pháp luật. Anh Gi kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh, nhưng anh không đưa ra căn cứ nào mới và tài liệu nào để chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ nên cần bác toàn bộ kháng cáo của anh Gi và giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

Yêu cầu kháng cáo của anh Gi không có cơ sở chấp nhận nhưng do anh Gi là hộ nghèo nên anh Gi được miễn án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 584; 588; Bộ luật dân sự; Điều 26; 35; 39; 147; 184; 185; 220; 227; 228; 245; 254; 262; 266; 271; 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về thu nộp quản lý, sử dụng án phí lệ phí.

Xử: Không chấp nhận nội dung kháng cáo của anh Trương Đức Gi. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện và yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông Trương Đức Gi về yêu cầu Tòa án buộc ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam phải trả ông số tiền bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi của ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Bắc Ninh không giao cho ông quyết định miễn giảm lãi số 2691 ngày 10/5/2017 của ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam.

2. Ông Trương Đức Gi phải chịu tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 4.000.000đ. Xác nhận ông Gi đã nộp đủ số tiền trên.

3. Về án phí dân sự: Anh Trương Đức Gi không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm.

Hoàn trả Anh Gi 300.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm anh Gi đã nộp tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 000905 ngày 05/11/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Ninh.

Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư phát triển Việt Nam không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 50/2022/DSPT

Số hiệu:50/2022/DSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về