Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 53/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 53/2021/HS-ST NGÀY 25/05/2021 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CM

Trong ngày 25 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 47/2021/TLST-ST, ngày 22 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2021, đối với:

- Bị cáo: Họ và tên: Nguyễn Hữu H, sinh năm 1985.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: số A618 tổ 15, khu phố 1, phường L, thành phố B, tỉnh Đ. Chỗ ở: số A618 tổ 15, khu phố 1, phường L, thành phố B, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Họ và tên cha: Nguyễn Hữu K,sinh năm 1956 (sống); Mẹ: Bà Trần Thị M, sinh năm 1963 (sống); Vợ: Nguyễn Thu T, sinh năm 1984; Con: có 01 con sinh năm 2014; Tiền án: không; Tiền sự: không;

Về nhân thân: Ngày 24/7/2006, Nguyễn Hữu H bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tuyên phạt 05 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong ngày 19/12/2006. Bị cáo H bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/11/2020 đến nay, bị cáo có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Trần Thị Minh K, sinh năm 1982. (Vắng mặt) Địa chỉ: số 140/1A T3, xã T, huyện HM, thành phố H.

2. Ông Trần Ngọc T, sinh năm 1990. (Vắng mặt) Địa chỉ: số 48/44 đường L, thị trấn N B, thành phố H.

3. Ông Phạm Văn D, sinh năm 1984. (Vắng mặt) Địa chỉ: số 12/157 đường NK, phường 2, quận 4, thành phố H.

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Vũ L, sinh năm 1999. (Vắng mặt)

2. Ông Lý Minh P, sinh năm 1999. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 13/11/2020, Nguyễn Hữu H gặp một người đàn ông tên H1 (không rõ nhân thân, lai lịch) gần sân bay Tân Sơn Nhất, thành phố Hồ Chí Minh. Ông H1 kêu H đi vận chuyển thuốc lá điếu ngoại nhập lậu thuê cho H1 từ cửa khẩu T, huyện T, tỉnh L đến quận TĐ, thành phố H (nay là thành phố TĐ, Thành phố H) giao cho H1, H1 trả tiền công mỗi chuyến là 1.000.000đồng, H đồng ý.

Khoảng 16 giờ ngày 16/11/2020, H đi xe khách đến đoạn đường gần siêu thị CoopMart, quận Thủ Đức, thành Phố Hồ Chí Minh thì H1 điều khiển xe ô tô, nhãn hiệu Innova (không nhớ biển số) chở H đi đến cửa khẩu T. Tại đây, H nhận 01 xe ô tô loại 7 chỗ, loại xe Fotuner màu bạc, biển số: 51G- 572.92 để vận chuyển thuốc lá điếu ngoại nhập lậu. Khi mở xe ra thì H nhìn thấy bên trong có chứa nhiều thuốc lá hiệu Hero, Jet, Scott (số lượng bao nhiêu không rõ). H điều khiển xe chở thuốc lá điếu ngoại nhập lậu đi về quận TĐ, Thành Phố H giao cho H1. Khi đi đến đoạn Đường tỉnh lộ 825 thuộc ấp B2, xã ĐH, huyện Đ, tỉnh L thì bị lực lượng Công an chặn lại kiểm tra. H bỏ xe chạy được khoảng 50m thì bị lực lượng Công an truy đuổi bắt giữ.

Tại công văn số 106 ngày 17 tháng 11 năm 2020 của Hiệp hội thuốc lá Việt Nam xác định: “03 mẫu cây thuốc lá điếu nhãn hiệu: JET, HERO và SCOTT” do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Hoà, tỉnh Long An cung cấp là thuốc lá điếu nhập lậu.

Tại bản cáo trạng số 52/CT-VKSĐH ngày 22 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An truy tố bị cáo Nguyễn Hữu H về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm b khoản 3 Điều 191 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Kiểm sát viên sau khi phân tích, đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo Nguyễn Hữu H gây ra; căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 191, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu H phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu H từ 07 năm đến 08 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 4 Điều 191 đối với bị cáo Nguyễn Hữu H.

Về áp dụng biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Đối với số tiền 1.000.000đồng tiền công vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu do H trả là tiền thu lợi bất chính nên đề nghị bị cáo H nộp lại sung vào ngân sách nhà nước.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Đối với 14.990 bao thuốc lá điếu gồm: 2.490 bao thuốc là điếu hiệu Hero; 2.000 bao thuốc lá điếu hiệu Scott; 10.500 bao thuốc lá điếu hiệu Jet do nước ngoài sản xuất không rõ xuất xứ hàng hóa, không hóa đơn, chứng từ là tang vật nên đề nghị tịch thu giao Cơ quan thi hành án dân sự huyện Đức Hòa xử lý theo quy định pháp luật.

- Đối với 01 xe ô tô loại 7 chỗ, loại xe Fotuner màu bạc, biển số: 51G- 572.92 là tài sản hợp pháp của bà Trần Thị Minh K nên cơ quan điều tra đã trao trả lại cho bà K là có cơ sở, không đề cập xử lý.

- Đối với 02 biển số xe 51G-572.92 là biển số giả nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Đánh giá về tố tụng:

[1.1]. Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Đức Hòa và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, các chứng cứ đã thu thập là có căn cứ, đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2]. Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng:

Đối với các ông Trần Thị Minh K, Trần Ngọc T, Phạm Văn D, Nguyễn Vũ L, Lý Minh P là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng vắng mặt nhưng đã được cơ quan điều tra lấy lời khai để xác định sự thật vụ án, sự vắng mặt của những người này không ảnh hưởng gì đến phiên tòa nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt theo Điều 293 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[2]. Đánh giá chứng cứ của Hội đồng xét xử:

[2.1]. Hành vi khách quan của bị cáo Nguyễn Hữu H đã thực hiện:

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hữu H thừa nhận đã thực hiện phạm tội như sau: Vì muốn có tiền tiêu xài nên khi gặp một người tên H1 (không rõ nhân thân, lai lịch) tại khu vực sân bay Tân Sơn Nhất, thành phố Hồ Chí Minh, H đã thỏa thuận sẽ vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu cho H1 từ khu vực cửa khẩu T, huyện ĐH, tỉnh L về quận TĐ, thành phố H với tiền công 1.000.000đ/chuyến. Đến 16 giờ ngày 16/11/2020, H1 đưa H đến cửa khẩu T, huyện Đ. Tại đây, H thấy có một xe ô tô loại xe Fotuner đang đậu, H đến nhận xe chạy về gần siêu thị Coop Mart, quận TĐ, thành phố H giao cho H1. Khi H điều khiển xe đi đến đoạn đường tỉnh lộ 825 thuộc ấp B2, xã ĐH, huyện Đ, tỉnh L thì bị lực lượng Công an chặn lại kiểm tra và bắt giữ.

Tại công văn số 106 ngày 17 tháng 11 năm 2020 của Hiệp hội thuốc lá Việt Nam xác định: “03 mẫu cây thuốc lá điếu nhãn hiệu: JET, HERO và SCOTT” do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Hoà, tỉnh Long An cung cấp là thuốc lá điếu nhập lậu.

[2.2]. Hội đồng xét xử đánh giá: Xét lời khai nhận của bị cáo H trước tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của những người làm chứng; phù hợp với Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang do Công an huyện Đức Hòa lập vào lúc 23 giờ 15 phút ngày 16/11/2020; phù hợp với các chứng cứ khách quan khác có trong hồ sơ đã thu thập được thẩm tra công khai tại phiên tòa.

Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Hữu H có hành vi vận chuyển thuốc lá ngoại nhập lậu với số lượng 14.990 bao thuốc lá điếu gồm: 2.490 bao thuốc là điếu hiệu Hero; 2.000 bao thuốc lá điếu hiệu Scott; 10.500 bao thuốc lá điếu hiệu Jet bị bắt quả tang. Hành vi này của Nguyễn Hữu H đã vi phạm quy định tại Nghị định 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015 của Chính phủ về: sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, tại Điều 25, đã nêu rõ: “Hành vi vi phạm về buôn bán, vận chuyển, tàng trữ, giao nhận hàng cấm là thuốc lá điếu nhập”.” Do đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Hữu H đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 191 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Hành vi vận chuyển hàng cấm của bị cáo Nguyễn Hữu H đã xâm hại đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng cấm. Khi thực hiện hành vi, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật nhưng vẫn bất chấp pháp luật thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi trái pháp luật của bị cáo H cần xử lý nghiêm theo pháp luật hình sự. Như vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An truy tố bị cáo Nguyễn Hữu H về tội “Vận chuyển hàng cm” là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Xét đề nghị của Kiểm sát viên về áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Nguyễn Hữu H là phù hợp nên Hội đồng xét xử xét ghi nhận.

[3]. Đánh giá về tình tiết định khung, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

- Về tình tiết định khung: Hành vi của bị cáo Nguyễn Hữu H không thuộc các tình tiết định khung khác nên bị xét xử theo điểm b khoản 3 Điều 191 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là phù hợp.

- Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

+ Tình tiết tăng nặng: Bị cáo Nguyễn Hữu H không bị áp dụng tình tiết tăng nặng khác theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

+ Về các tình tiết giảm nhẹ:

Bị cáo Nguyễn Hữu H chưa có tiền án, tiền sự; thành khẩn khai báo; gia cảnh khó khăn đang nuôi con nhỏ, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên có xem xét giảm nhẹ một phần khi quyết định hình phạt.

[4]. Về áp dụng biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Đối với số tiền 1.000.000đồng tiền công vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu do Hưng trả là tiền thu lợi bất chính nên cần buộc bị cáo H nộp lại sung vào ngân sách nhà nước.

[5]. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Đối với 14.990 bao thuốc lá điếu gồm: 2.490 bao thuốc là điếu hiệu Hero; 2.000 bao thuốc lá điếu hiệu Scott; 10.500 bao thuốc lá điếu hiệu Jet do nước ngoài sản xuất không rõ xuất xứ hàng hóa, không hóa đơn, chứng từ là tang vật nên tịch thu giao Cơ quan thi hành án dân sự huyện Đức Hòa xử lý theo quy định pháp luật.

- Đối với 01 xe ô tô loại 7 chỗ, loại xe Fotuner màu bạc, biển số: 51G- 572.92 là tài sản hợp pháp của bà Trần Thị Minh K nên cơ quan điều tra đã trao trả lại cho bà Kha là phù hợp nên không đề cập xử lý.

- Đối với 02 biển số xe 51G-572.92 là biển số giả nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với các ông, bà: Trần Thị Minh K, Trần Ngọc T, Phạm Văn D có hành vi cho thuê và cho thuê lại xe ô tô biển số 51H-740.81, bà K, ông H, ông D không biết người thuê xe ô tô này để vận chuyển hàng cấm nên hành vi của bà K, ông H, ông D không cấu thành tội phạm có liên quan.

Đối với người có tên H1 có hành vi thuê Nguyễn Hữu H vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu. Do không xác định được nhân thân lai lịch của H1 nên không có căn cứ xử lý nên đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục truy tìm. Nếu sau này truy tìm được H1 sẽ xử lý sau.

[6]. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015. Buộc bị cáo Nguyễn Hữu H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu H phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

2. Về Điều luật áp dụng và hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 191, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu H 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/11/2020.

3. Về tạm giam: Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Hữu H 45 ngày (kể từ ngày 25/5/2021) để đảm bảo kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

4. Về áp dụng biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017: Buộc bị cáo Nguyễn Hữu H nộp lại 1.000.000đồng sung vào ngân sách nhà nước.

5. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy 14.990 bao thuốc lá điếu nhập lậu gồm: 2.490 bao thuốc lá điếu hiệu Hero; 2.000 bao thuốc lá điếu hiệu Scott; 10.500 bao thuốc lá điếu hiệu Jet giao Cơ quan thi hành án dân sự huyện Đức Hòa xử lý theo quy định pháp luật.

- Tịch thu tiêu hủy 02 biển số xe 51G-572.92 (biển số giả) (Các tang vật trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/4/2021).

6. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Hữu H nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước.

7. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 53/2021/HS-ST

Số hiệu:53/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về