Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm xe) số 27/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TRÀ VINH, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 27/2020/HS-ST NGÀY 09/07/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 09 tháng 7 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 28/2020/TLST-HS ngày 09 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2020 và Thông báo dời ngày xét xử số 13/TB-TA ngày 30/6/2020 đối với bị cáo:

Phan Danh V, sinh ngày 14/02/1986; tại Thôn A, xã C, huyện N, tỉnh Hà T; Nơi cư trú: Thôn A, xã C, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn M, sinh năm 1964 và bà Hoàng Thị H, sinh năm 1959; tiền án: 04 lần, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 16/9/2010 bị Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội cướp tài sản. Ngày 23/4/2013 bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 10 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Ngày 10/6/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh xử phạt 02 năm tù về tội trộm cắp tài sản. Ngày 09/3/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; bị bắt tạm giữ từ ngày 13/3/2020 sau đó chuyển sang tạm giam cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Phạm Nguyễn Nhật H, sinh năm 1987 (có đơn xét xử vắng mặt).

Nơi cư trú: Đường Đ, khóm F, phường F, thành phố T, tỉnh Trà Vinh. Nơi tạm trú: Khóm C, phường E, thành phố T, tỉnh Trà Vinh.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Thành L, sinh năm 1962 (có đơn xét xử vắng mặt).

Nơi cư trú: Ấp T, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

- Người làm chứng:

1. NLC1, sinh năm 1976 (vắng mặt) Nơi cư trú: Đường D, khóm C, phường E, thành phố T, tỉnh Trà Vinh.

2. NLC2, sinh năm 1982 (vắng mặt) Nơi cư trú: Khóm D, phường E, thành phố T, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có nghề nghiệp, để có tiền tiêu xài nên vào khoảng 08 giờ ngày 12/3/2020, Phan Danh V gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) trên đường L, phường O, quận C, thành phố Hồ Chí Minh hỏi mua dụng cụ dùng để cắt, bẻ khóa phục vụ cho việc trộm cắp xe mô tô, xe máy với giá 1.000.000 đồng. Sau đó, bị cáo đón xe khách về thành phố T, tỉnh Trà Vinh rồi tìm nhà trọ nghỉ qua đêm.

Đến khoảng 09 giờ 30 phút ngày 13/3/2020, bị cáo V một mình mang theo những dụng cụ trên đi đến khu vực phường E, thành phố T, tỉnh Trà Vinh quan sát nhà nào sơ hở trong việc trông coi, quản lý xe máy để lén lút bẻ khóa lấy trộm. Sau đó, bị cáo đi vào con hẻm thuộc khóm C, phường E, thành phố T, tỉnh Trà Vinh thì phát hiện 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Vision, màu đen biển số: 84L1- X do ông Phạm Nguyễn Nhật H đang dựng trước nhà số AEG, khóm C, phường E, thành phố T, tỉnh Trà Vinh. Quan sát thấy không có người trông coi, bị cáo đi đến tiếp cận và ngồi lên yên xe, rồi lấy một đoạn kim loại được mài dẹp, dài 05cm đút vào trong ổ khóa xe. Bị cáo tiếp tục lấy ống điếu bằng kim loại gắn vào đoạn kim loại đã được đút sẵn trong ổ khóa nhằm mục đích bẻ hư ổ khóa, rồi đề máy xe tẩu thoát. Trong lúc bị cáo đang thực hiện hành vi bẻ khóa để lấy trộm xe thì bị ông H (chủ xe) phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 13/BKLĐGTS ngày 17/3/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong hoạt động tố tụng hình sự thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh kết luận: chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Vision màu đen đã qua sử dụng, có giá trị 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh đã trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Vision màu đen cho ông Phạm Nguyễn Nhật H.

Đối với một giấy chứng nhận đăng ký xe số 007825 mang tên Nguyễn Thành L, sinh năm 1962, ngụ ấp T, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai, xác định không liên quan đến vụ án nên đã trả lại cho ông Nguyễn Thành L.

Đối với người đàn ông khoảng 40 tuổi trên đường L, phường O, quận C, thành phố Hồ Chí Minh đã bán cho bị cáo dụng cụ dùng để bẻ, cắt khóa phục vụ cho việc trộm cắp xe mô tô, xe máy. Do bị cáo khai không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không thể mời làm việc được, khi nào đủ cơ sở sẽ xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 32/CT-VKS-HS ngày 09/6/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố Phan Danh V về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phan Danh V về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phan Danh V từ 03 năm đến 04 năm tù. Đồng thời đề nghị xử lý tang vật chứng và buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Phạm Nguyễn Nhật H đã nhận lại được tài sản và không có yêu cầu, nên không đặt ra giải quyết.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã biết lỗi của bị cáo, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để bị cáo sớm về đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Trà Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Phan Danh V đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 13/3/2020 bị cáo Phan Danh V lợi dụng lúc chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Vision, màu đen biển số: 84L1-X của ông Phạm Nguyễn Nhật H đang dựng trước nhà số AEG, khóm C, phường E, thành phố T, tỉnh Trà Vinh không có người trông coi, bị cáo đi đến tiếp cận và ngồi lên yên xe, rồi lấy một đoạn kim loại được mài dẹp, dài 05cm đút vào trong ổ khóa xe. Bị cáo tiếp tục lấy ống điếu bằng kim loại gắn vào đoạn kim loại đã được đút sẵn trong ổ khóa nhằm mục đích bẻ hư ổ khóa, rồi đề máy xe tẩu thoát, nhưng bị anh H (chủ xe) phát hiện. Theo kết luận định giá của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thì chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Vision màu đen đã qua sử dụng, có giá trị 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng). Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Phan Danh V phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự an toàn xã hội, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần xử lý nghiêm. Bị cáo có 04 tiền án (trong đó 01 tiền án về tội “Cướp tài sản” và 03 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”), khi chấp hành xong hình phạt tù ra ngoài xã hội, bị cáo không cố gắng lao động chân chính, mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó, xét thấy cần xử bị cáo mức án tù có thời hạn mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên cũng cần xem xét, sau khi bị bắt bị cáo đã thành khẩn khai báo, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại về tài sản, tài sản đã trả lại cho bị hại. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Phạm Nguyễn Nhật H đã nhận lại được tài sản nên không yêu cầu về bồi thường dân sự. Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về vật chứng: 01 khóa lục giác hình chữ L dài 06cm, ngang 02cm, đường kính 03mm bằng kim loại màu trắng; 01 cây kềm thủy lực màu cam-đen, hiệu Asaki AKD620 Japan model YQ-16A dài 37cm bằng kim loại; 01 cây cờ lê bằng kim loại có in dòng chữ Century usa standard; 01 ống điếu bằng kim loại dài 05cm, có in dòng chữ Newskill usa standard- Cr- V8mm; 01 đoạn kim loại dài 05cm được mài dẹp. Là công cụ phạm tội, nghĩ nên tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

luật.

[6] Về án phí: Bị cáo Phan Danh V phải chịu án phí theo quy định của pháp Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 136, Điều 106 Bộ luật tống tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố bị cáo Phan Danh V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Phan Danh V 04 (bốn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/3/2020.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Phạm Nguyễn Nhật H đã nhận lại được tài sản, không yêu cầu về bồi thường dân sự. Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 khóa lục giác hình chữ L dài 06cm, ngang 02cm, đường kính 03mm bằng kim loại màu trắng; 01 cây kềm thủy lực màu cam-đen hiệu Asaki AKD620 Japan model YQ-16A dài 37cm bằng kim loại; 01 cây cờ lê bằng kim loại có in dòng chữ Century usa standard; 01 ống điếu bằng kim loại dài 05cm có in dòng chữ Newskill usa standard- Cr- V8mm; 01 đoạn kim loại dài 05cm được mài dẹp.

thẩm.

Về án phí: Buộc bị cáo Phan Danh V nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ Án sơ thẩm xét xử công khai, bị cáo và các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm xe) số 27/2020/HS-ST

Số hiệu:27/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Trà Vinh - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về