TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 127/2023/HS-ST NGÀY 31/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 31 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh và Nhà tạm giữ Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai theo hình thức trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 128/2023/TLST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 966/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:
Trương Bá D, sinh ngày 11 tháng 10 năm 1974 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; CMND số 0226xxxxx; Hộ khẩu thường trú: Số x4 đường N, Phường M, Quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: Không nơi cư trú ổn định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Công M và bà Nguyễn Thị L; Vợ, con: Không; Nhân thân: Bị Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 10 tháng tù treo 20 tháng thử thách theo Bản án số 0595/HSST ngày 24 tháng 6 năm 1992 về tội “Cướp tài sản của công dân”, bị Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 tháng tù theo Bản án số 295/HSST ngày 22 tháng 8 năm 2000 về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù theo Bản án số 710/HSST ngày 24 tháng 7 năm 2007 về tội “Cướp giật tài sản”, bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù theo Bản án số 151/HSST ngày 18 tháng 5 năm 2015 về tội “Trộm cắp tài sản”; Tiền án: Bị Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 06 tháng tù theo Bản án số 338/HSST ngày 23 tháng 10 năm 2019 về tội “Trộm cắp tài sản”; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 02 tháng 5 năm 2023 (Có mặt tại điểm cầu thành phần)
Bị hại: Anh Phan M, sinh năm 1984; Nơi thường trú: Số 2x đường H, Phường K, Quận L, Thành phố Hồ Chí Minh (Có đơn xin vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 02 tháng 5 năm 2023, Trương Bá D đi bộ vào Cung Văn hóa Lao động tại Số 5 đường N, phường B, Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh tìm xe máy để sơ hở để trộm cắp. Đến khoảng 18 giờ 20 phút, Trương Bá D đến phía sau khu múa rối nước thì phát hiện 01 xe mô tô hai bánh hiệu Future, màu đỏ đen, biển số 59xx-84x.xx đậu tại đây không có người trông coi nên lấy thanh kim loại (đoản) dùng tay phải bẻ khóa thì bị phát hiện, truy hô. Trương Bá D vứt bỏ 02 thanh kim loại (đoản) ở gốc cây gần sân bóng chuyền, bỏ chạy đến Cổng số 3 của Cung Văn hóa Lao động thì bị bắt giữ và giao cho Công an phường lập hồ sơ xử lý.
Theo Kết luận định giá tài sản số 125/KL-HĐĐGTS ngày 09 tháng 5 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh kết luận 01 xe mô tô hiệu Honda, loại Future, dung tích 124, màu đen - đỏ, biển số 59xx-84x.xx, số máy JC53E30xxxxx, số khung 5367EZ0xxxxx đã qua sử dụng trị giá 16.500.000 đồng.
Tại Cơ quan điều tra, Trương Bá D khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên, lời khai của Trương Bá D phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng, hình ảnh camera tại hiện trường, biên bản ghi nhận sự việc, biên bản thực nghiệm điều tra, biên bản đối chất với bị hại và các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra thu thập.
Vật chứng vụ án:
- 01 (Một) xe mô tô hiệu Honda, loại Future, dung tích 124, màu đen - đỏ, biển số 59xx-84x.xx, số máy JC53E30xxxxx, số khung 5367EZ0xxxxx, đã trả lại cho anh Phan M;
- 01 (Một) thanh kim loại hình chữ “L”, bọc keo màu đen, kích thước dài khoảng 10x15cm đã qua sử dụng;
- 01 (Một) thanh kim loại hình khối vuông, kích thước dài khoảng 05cm đã qua sử dụng;
- Thu giữ của Trương Bá D: 01 (Một) túi nylon màu đỏ; 01 (Một) áo chất liệu thun, ngắn tay, màu đen; 01 (Một) quần ống ngắn, màu xanh; 01 (Một) đôi dép loại xỏ ngón, màu nâu; 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone 8, số imei 3567320837xxxxx, bể mặt sau đều đã qua sử dụng.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là anh Phan M đã nhận lại xe mô tô, không yêu cầu đền bù gì khác về mặt dân sự, không yêu cầu đền bù ổ khóa xe bị hư.
Cáo trạng số 140/CT-VKS-Q1 ngày 14 tháng 8 năm 2023 của Viện Kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Trương Bá D về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, bị cáo Trương Bá D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố.
Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận, giữ nguyên cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Trương Bá D về tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo phạm tội chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn, tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại; tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này là tái phạm, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trương Bá D từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu giải quyết vấn đề dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) thanh kim loại hình chữ “L”, bọc keo màu đen, kích thước dài khoảng 10x15cm, 01 (Một) thanh kim loại hình khối vuông, kích thước dài khoảng 05cm, 01 (Một) túi nylon màu đỏ, 01 (Một) áo chất liệu thun, ngắn tay, màu đen, 01 (Một) quần ống ngắn, màu xanh, 01 (Một) đôi dép loại xỏ ngón, màu nâu; Trả lại cho bị cáo 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone 8, số imei 3567320837xxxxx, bể mặt sau.
Bị cáo Trương Bá D nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt và xem xét tiền án phí trong Bản án số 338/HSST ngày 23 tháng 10 năm 2019 vì khi bị cáo ra tù thì có dịch Covid-19 nên bị cáo chưa nộp tiền án phí được.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với những lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại và người làm chứng, vật chứng thu được của vụ án, cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được. Bị cáo khai nhận vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 02 tháng 5 năm 2023, bị cáo đi bộ vào Cung Văn hóa Lao động tại Số 5 đường N, phường B, Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh tìm xe máy để sơ hở để trộm cắp. Đến khoảng 18 giờ 20 phút, bị cáo đến phía sau khu múa rối nước thì phát hiện 01 xe mô tô hiệu Future, màu đỏ đen, biển số 59xx-84x.xx đậu tại đây không có người trông coi nên lấy thanh kim loại (đoản) dùng tay phải bẻ khóa thì bị phát hiện, truy hô; Bị cáo vứt bỏ 02 thanh kim loại (đoản) ở gốc cây gần sân bóng chuyền, bỏ chạy đến Cổng số 3 của Cung Văn hóa Lao động thì bị bắt giữ và giao cho Công an phường lập hồ sơ xử lý. Như vậy, bị cáo là người đủ 18 tuổi có mục đích chiếm đoạt tài sản nên đã lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người quản lý tài sản, có hành vi lén lút chiếm đoạt xe mô tô của anh Phan M. Theo Kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh thì trị giá chiếc xe mô tô là 16.500.000 đồng. Do đó, bị cáo Trương Bá D đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[4] Về đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Xét hành vi phạm tội của bị cáo có tính chất, mức độ ít nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quan hệ sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự, an toàn xã hội, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần phải áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.
[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo phạm tội gây thiệt hại không lớn; Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[6] Về hình phạt bổ sung, theo khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập, ở nhà thuê, điều kiện kinh tế khó khăn, không có khả năng thi hành hình phạt tiền. Căn cứ khoản 2 Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về đánh giá vật chứng, xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2021:
[8] 01 (Một) xe mô tô hiệu Honda, loại Future, dung tích 124, màu đen - đỏ, biển số 59xx-84x.xx, số máy JC53E30xxxxx, số khung 5367EZ0xxxxx, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Phan M là phù hợp và không xem xét thêm;
[9] 01 (Một) thanh kim loại hình chữ “L”, bọc keo màu đen, kích thước dài khoảng 10x15cm và 01 (Một) thanh kim loại hình khối vuông, kích thước dài khoảng 05cm đã qua sử dụng, là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy;
[10] 01 (Một) túi nylon màu đỏ, 01 (Một) áo chất liệu thun, ngắn tay, màu đen, 01 (Một) quần ống ngắn, màu xanh, 01 (Một) đôi dép loại xỏ ngón, màu nâu của bị cáo không có giá trị, không sử dụng được, cần tịch thu và tiêu hủy;
[11] 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone 8, số imei 3567320837xxxxx, bể mặt sau là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội, không phải là vật chứng nên trả lại cho bị cáo, nhưng tiếp tục tạm giữ để bảo đảm thi hành án;
[12] 01 (Một) usb ghi lại hình ảnh Trương Bá D được trích xuất từ camera số 01 tại Cổng Số 3 Cung Văn hóa Lao động, Số 5 đường N, phường B, Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh là tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc chứng minh tội phạm nên cần tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án.
[13] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu giải quyết vấn đề dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[14] Về án phí: Người bị kết án phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm quy định tại khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2021; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[15] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2021.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Tuyên bố: Bị cáo Trương Bá D phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, phạt bị cáo Trương Bá D 01 (Một) năm 06 (Tháng) tù, thời hạn tù tính từ ngày 02 tháng 5 năm 2023.
- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2021:
Tịch thu và tiêu hủy 01 (Một) thanh kim loại hình chữ “L”, bọc keo màu đen, kích thước dài khoảng 10x15cm; 01 (Một) thanh kim loại hình khối vuông, kích thước dài khoảng 05cm; 01 (Một) túi nylon màu đỏ; 01 (Một) áo chất liệu thun, ngắn tay, màu đen; 01 (Một) quần ống ngắn, màu xanh; 01 (Một) đôi dép loại xỏ ngón, màu nâu đã qua sử dụng (Phiếu nhập kho vật chứng số 115/2023/PNK-THAHS ngày 25 tháng 7 năm 2023 của Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh).
Trả lại cho bị cáo Trương Bá D 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone 8, số imei 3567320837xxxxx, bể mặt sau đã qua sử dụng (Phiếu nhập kho vật chứng số 115/2023/PNK-THAHS ngày 25 tháng 7 năm 2023 của Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh).
- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2021; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trương Bá D phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Quyền kháng cáo: Áp dụng các điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2021, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 127/2023/HS-ST
Số hiệu: | 127/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về