TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 145/2019/HS-ST NGÀY 25/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 25 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án Nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 137/2019/TLST-HS ngày 27 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 800/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:
Huỳnh Hữu H, sinh ngày 20 tháng 09 năm 1984, tại Tp. Hồ Chí Minh. nơi đăng ký HKTT: X Đề Thám, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, TP Hồ Chí Minh; chỗ ở: X Đề Thám, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, TP Hồ Chí Minh; trình độ học vấn: 02/12; nghề nghiệp: không; con ông Huỳnh Hùng H (sinh năm: không rõ) và bà Lê Thị T (Đã chết); chưa có vợ con; tiền án: ngày 17/8/2015, bị Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm 6 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”; chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/6/2018; tiền sự: không; nhân thân: ngày 18/9/1998 UBND Thành phố Hồ Chí Minh đưa vào trường giáo dưỡng 24 tháng theo quyết định số 0307/QĐUB ngày 10/9/1998. Ngày 07/5/2003 bị TAND Quận 1 tuyên phạt 01 năm 6 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, đã chấp hành xong bản án; bị bắt và tạm giam từ ngày 12/07/2019 và có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Ông Phạm Tuấn V; sinh năm 1994; địa chỉ: X Đề Thám, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh (vắng mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Ông Nguyễn Hoàng Đ; sinh năm 1977; địa chỉ: X khu phố 3, Phường Minh Thuận, Quận 7, Tp. Hồ Chí Minh (vắng mặt)
2. Ông Hoàng Cao T; sinh năm 1961; địa chỉ: X tổ 1, đường số 5, khu phố 1, phường Linh Đông, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)
3. Ông Trần Văn H2; sinh năm 1981; địa chỉ: Pc Hải 2, Đa Pc, Dương Kinh, Hải Phòng (vắng mặt) - Người tham gia tố tụng khác: Người làm chứng:
1. Ông Đặng Trần Duy K; sinh năm 1993; địa chỉ: X Bùi Viện, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh (vắng mặt);
2. Ông Võ Văn P; sinh năm 1985; địa chỉ: X Bùi Viện, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 04/9/2018, ông Phạm Tuấn V để xe mô tô, biển kiểm soát 52X5-22xx trước nhà số X Đề Thám, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng 22 giờ 40 Phút cùng ngày, Huỳnh Hữu H đi bộ đến trước địa chỉ trên thì thấy chiếc xe mô tô của ông V dựng trên lề đường không có người trông coi nên H nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. H đi đến chiếc xe dùng chìa khóa tự chế (đoãn) để trong túi quần phá ổ khóa chiếc xe, sau đó H điều khiển xe đên khu dân cư Trung Sơn, Huyện Bình Chánh gặp đối tượng tên thường gọi là T (không rõ lai lịch) và cùng T đến hẻm X Tôn Đản, Quận 4 bán xe cho tên B (không rõ lai lai lịch) được 4.000.000 đồng, H cho T 500.000 đồng; số tiền còn lại H tiêu xài cá nhân hết. Khoảng 23 giờ cùng ngày, ông V phát hiện chiếc xe bị kẻ gian chiếm đoạt nên đến Công an phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1 trình báo. Qua truy xét xác định H trộm cắp chiếc xe của ông V nên đưa Huỳnh Hữu H về Công an phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1 lập hồ sơ ban đầu chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 để điều tra theo thẩm quyền.
Theo Kết luận định giá tài sản số 303/KL-HĐĐGTS ngày 13/9/2018 của Hội đông định giá tài sản trong tố tụng hình sự: 01 xe mô tô hiệu Honda loại Future Neo, biển số: 52X5-22xx, số khung: 234558 – JC35007Y, số máy 0669490 – JC35E trị giá 12.067.000 đồng.
trên.
Tại Cơ quan điều tra, Huỳnh Hữu H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Vật chứng vụ án:
- 01 xe mô tô hiệu Honda loại Future Neo, biển số: 52X5-22xx, số khung:
234558 – JC35007Y, số máy 0669490 – JC35E, do ông Hoàng Cao T đứng tên đăng ký, ngày 07/8/2018 ông T lập ủy quyền cho ông Trần Văn H2 quản lý chiếc xe, ngày 08/8/2018 các ông T, H2 ủy quyền quản lý chiếc xe cho ông Nguyễn Hoàng Đ, cùng ngày, ông Đ bán chiếc xe trên cho ông Phạm Tuấn V với giá 16.000.000 đồng. Chiếc xe hiện nay chưa thu hồi được.
- Thu giữ của Huỳnh Hữu H: 01 mũ bảo hiểm màu đỏ đậm, 01 áo sơ mi màu trắng dài tay và 01 quần tây xanh dương đậm.
Về trách nhiệm dân sự: Ông V yêu cầu bị cáo bồi thường tiền mu axe.
Tại bản cáo trạng số 141/CT-VKS ngày 25 tháng 9 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Huỳnh Hữu H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Huỳnh Hữu H 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; tịch thu tiêu hủy 01 mũ bảo hiểm màu đỏ đậm, 01 áo sơ mi màu trắng dài tay và 01 quần tây xanh dương đậm của bị cáo Huỳnh Hữu H do không có giá trị sử dụng; buộc bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 16.000.000 đồng.
Bị cáo khai nhận hành vi phạm tôi phù hợp nội dung cáo trạng, không bào chữa, không tranh luận, đồng ý bồi thường cho bị hại 16.000.000 đồng và xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 1, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng cùng các tài liệu và chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ 40 Phút ngày 04/9/2018, tại trước nhà số X Đề Thám, Phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Huỳnh Hữu H đã có hành vi lợi dung sơ hở trong việc quản lý tài sản của anh Phạm Tuấn V để lén lút, chiếm đoạt 01 xe mô tô hiệu Honda Future Neo, số khung: 234558 – JC35007Y, số máy 0669490, biển số:
52X5-22xx, trị giá 12.067.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”; tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang, lo lắng trong nhân dân. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai trái nhưng vì động cơ tư lợi cá nhân, muốn có tiền tiêu xài cho bản thân mà không phải lao động nên vẫn cố tình thực hiện. Do đó, cần có mức án nghiêm khắc mới có tác dụng răn đe đối với bản thân bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.
[4] Xét, bị cáo có 01 tiền án về tội “ Cướp giật tài sản ” nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, cần áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
[5] Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự, theo Kết luận định giá tài sản số 303/KL- HĐĐGTS ngày 13/9/2018 của Hội đông định giá tài sản trong tố tụng hình sự thì tài sản bị chiếm đoạt trị giá 12.067.000 đồng, tuy nhiên, tại phiên tòa, bị cáo đồng ý với mức bồi thường thiệt hại mà bị hại yêu cầu nên cần ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo bồi thường cho ông V số tiền 16.000.000 đồng.
[7] Về vật chứng vụ án, cần tịch thu tiêu hủy 01 mũ bảo hiểm màu đỏ đậm, 01 áo sơ mi màu trắng dài tay và 01 quần tây xanh dương đậm của bị cáo Huỳnh Hữu H do không có giá trị sử dụng.
[8] Về án phí, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sở thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Huỳnh Hữu H phạm tội “Trộm cắp tài sản” .
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Huỳnh Hữu H 01( một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12 tháng 07 năm 2019.
Căn cứ vào: Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Tịch thu tiêu hủy 01 mũ bảo hiểm màu đỏ đậm, 01 áo sơ mi màu trắng dài tay và 01 quần tây xanh dương đậm của bị cáo Huỳnh Hữu H do không có giá trị sử dụng (Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 249-19/PNK ngày 29/7/2019 của Công an Quận 1).
Căn cứ vào: Điều 30 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 357, Điều 468, khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585, khoản 1 Điều 586, khoản 1 Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015, Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Huỳnh Hữu H bồi thường cho ông Phạm Tuấn V số tiền 16.000.000 đồng.
Thi hành ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày ông V có đơn yêu cầu bị cáo thi hành khoản tiền nói trên cho đến khi thi hành xong, bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn pH thi hành theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Căn cứ vào: Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; các điểm a, c khoản 1 Điều 23, Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Bị cáo Huỳnh Hữu H phải chịu án phí hình sư sơ thẩm là 200.000 đồng, án phí dân sự sơ thẩm là 800.000 đồng.
Căn cứ vào: Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: Bị cáo Huỳnh Hữu H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Phạm Tuấn V có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm xe mô tô hiệu Honda loại Future Neo) số 145/2019/HS-ST
Số hiệu: | 145/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về