Bản án về tội trộm cắp tài sản số 64/2019/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 64/2019/HS-ST NGÀY 10/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 67/2019/HSST ngày 31 tháng 05 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2019/HSST-QĐ ngày 26 tháng 06 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ tên: Trần Văn Thanh B; Sinh ngày: 15/12/2000 tại: Thành phố H; Địa chỉ thường trú: phường Tân Phú, Quận X, Thành phố H; Chỗ ở hiện nay: phường Long Thạnh Mỹ, Quận X, Thành phố H; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Khắc N (chết) và bà không rõ họ tên; Chưa có vợ con; Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/03/2019 (có mặt).

- Bị hại:

1. Ông Lê Sỹ Đ, sinh năm: 1982 Địa chỉ: phường Long Thạnh Mỹ, Quận X, Thành phố H (vắng mặt) mặt)

2. Ông Trần Văn Q, sinh năm: 1981 Địa chỉ: phường Long Thạnh Mỹ, Quận X, Thành phố H (vắng

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Đào Văn T, sinh năm: 1990 Địa chỉ: phường Tân Phú, Quận X, Thành phố H (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng cuối tháng 12/2018 (không nhớ rõ ngày, gần ngày noel), Trần Văn Thanh B một mình đi đến cửa hàng điện thoại H, địa chỉ: đường Nguyễn Văn T, khu phố M, phường Long Thạnh Mỹ, Quận X, Thành phố H, do anh Lê Sỹ Đ làm chủ. Lợi dụng lúc anh Đ sơ hở không trông coi, B đã lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Oppo F7 rồi bỏ đi. Bảo giữ điện thoại để sử dụng.

Khoảng tháng 02/2019 (không nhớ rõ ngày), Trần Văn Thanh B tiếp tục đi đến cửa hàng điện thoại địa chỉ đường Nguyễn Văn Tăng, khu phố M, phường Long Thạnh Mỹ, Quận X, Thành phố H. Bảo lợi dụng lúc anh Lê Sỹ Đ không trông coi, đã lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Masstel. Sau đó, B mang đến cửa hàng cầm đồ H, địa chỉ khu phố 6, phường Tân Phú, Quận X, Thành phố H bán cho anh Đào Văn T được 500.000 đồng và bù thêm vào số tiền 1.200.000 đồng để mua điện thoại di động hiệu Oppo A37 với giá 1.700.000 đồng để sử dụng cá nhân. Sử dụng được một thời gian, B lại bán điện thoại để lấy tiền tiêu xài.

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 18/3/2019, Trần Văn Thanh B đi xe đạp hiệu Asama đến cửa hàng điện thoại di dộng T, địa chỉ đường Nguyễn Văn T, khu phố C, phường Long Thạnh Mỹ, Quận X, Thành phố H do Trần Văn Q làm chủ. B lợi dụng lúc anh Q không trông coi đã lén lút chiếm đoạt điện thoại di động Iphone 6S 128 Gb bỏ vào túi quần rồi bỏ đi. Đến khoảng 21 giờ 45 phút cùng ngày, B tiếp tục đi đến cửa hàng điện thoại đường Nguyễn Văn T, khu phố M, phường Long Thạnh Mỹ, Quận X, Thành phố H thì bị anh Lê Sỹ Đ bắt giữ giao cho Công an Quận X xử lý.

Tại kết luận định giá tài sản số 75-2019/KL-ĐGTS ngày 04/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự đã kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Oppo F7 có giá trị còn lại là 3.400.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Masstel có giá trị còn lại là 600.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S 128G có giá trị còn lại là 4.400.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 71/CT-VKS ngày 29/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận X, Thành phố H đã truy tố bị cáo Trần Văn Thanh B về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn Thanh B đã trình bày lại toàn bộ nội dung vụ án và thừa nhận thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt 02 điện thoại di động hiệu Oppo F7 và Masstel của ông Lê Sỹ Đ vào tháng 12/2018 và tháng 02/2019 tại cửa hàng điện thoại H, địa chỉ đường Nguyễn Văn Tăng, khu phố M, phường Long Thạnh Mỹ, Quận X, Thành phố H và chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S 128Gb của ông Trần Văn Q vào ngày 18/3/2019 tại cửa hàng điện thoại di dộng T, địa chỉ đường Nguyễn Văn Tăng, khu phố C, phường Long Thạnh Mỹ, Quận X, Thành phố H như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Quận X, Thành phố H đã truy tố đối với bị cáo. Đồng thời, bị cáo đã nhìn nhận trách nhiệm của mình và tỏ thái độ ăn năn hối hận, xin được giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại là các ông Lê Sỹ Đ và Trần Văn Q trình bày lại nội dung vụ án, xác nhận đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường thiệt hại gì khác.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Đào Văn T xác nhận ông có mua 01 điện thoại di động hiệu Masstel do bị cáo bán với giá 500.000 đồng. Tuy nhiên, khi mua ông không biết điện thoại bị cáo bán là tài sản do bị cáo chiếm đoạt mà có. Hiện nay, ông T đã nộp lại chiếc điện thoại cho cơ quan điều tra. Ông T không yêu cầu bị cáo bồi thường lại số tiền 500.000 đồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận X tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến đánh giá nội dung vụ án, xác định hành vi phạm tội và giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Trần Văn Thanh B về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017) như nội dung bản cáo trạng. Đồng thời, Đại diện Viện kiểm sát cũng đã đánh giá tính chất hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng quy định pháp luật xử phạt bị cáo Trần Văn Thanh B mức án từ 09 tháng đến 01 năm tù; tịch thu xe đạp hiệu Asama của bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội và buộc bị cáo phải nộp lại số tiền 500.000 đồng do phạm tội mà có để sung quỹ Nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ, tang vật khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở để xác định bị cáo Trần Văn Thanh B đã ba lần thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của các ông Lê Sỹ Đ và Trần Văn Q. Cụ thể, bị cáo chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Oppo F7, trị giá 3.400.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Masstel, trị giá 600.000 đồng của ông Lê Sỹ Đ vào tháng 12/2018 và tháng 02/2019 tại cửa hàng điện thoại H, địa chỉ đường Nguyễn Văn T, khu phố M, phường Long Thạnh Mỹ, Quận X, Thành phố H và chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S 128Gb, trị giá 4.400.000 đồng của ông Trần Văn Q vào ngày 18/3/2019 tại cửa hàng điện thoại di dộng T, địa chỉ đường Nguyễn Văn T, khu phố C, phường Long Thạnh Mỹ, Quận X, Thành phố H. Tổng trị giá tài sản mà bị cáo chiếm đoạt là 8.400.000 đồng (tám triệu bốn trăm ngàn đồng). Bị cáo đã chiếm đoạt được tài sản, đem đi tiêu thụ và sau đó tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội thì bị phát hiện và bị bắt giữ nên hành vi phạm tội bị cáo đã hoàn thành. Hành vi của bị cáo Trần Văn Thanh B thực hiện đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Trong ba lần bị cáo thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản thì có hai lần chiếm đoạt tài sản vào ngày cuối tháng 12/2018 và ngày 18/3/2019 có trị giá tài sản mỗi lần chiếm đoạt trên 2.000.000 đồng nên mỗi hành vi này đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm trộm cắp tài sản. Do đó, bị cáo thuộc trường hợp phạm tội hai lần trở lên, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xét ý kiến của đại diện viện kiểm sát và nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Quận X đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự công cộng, phạm tội hai lần nên cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo, áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên, xét bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự nên cần xem xét áp dụng các quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Đối với ông Đào Văn T đã có hành vi mua 01 điện thoại di động hiệu Masstel do bị cáo đem bán với giá 500.000 đồng. Tuy nhiên, khi mua ông Tới không biết điện thoại này là do bị cáo phạm tội mà có. Do đó, cơ quan cảnh sát điều tra không xử lý vi phạm đối với ông Tới là có căn cứ.

Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại là ông Lê Sỹ Đ và ông Trần Văn Q đã nhận lại tài sản và nay không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì khác nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Ông Đào Văn T mua điện thoại di động Masstel của bị cáo giá 500.000 đồng. Khi vụ án bị phát hiện, ông Tới đã giao nộp lại chiếc điện thoại này cho cơ quan cảnh sát điều tra và đã trả lại cho chủ sở hữu. Nay ông T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền này nên Toà án không buộc bị cáo phải bồi thường cho ông T. Tuy nhiên, đây là số tiền thu lợi bất chính do phạm tội mà có nên cần phải buộc bị cáo nộp lại số tiền 500.000 đồng này để tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước.

Về tang vật chứng của vụ án:

Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại 02 điện thoại di động hiệu Oppo F7 và Masstel cho ông Lê Sỹ Đ và trả lại điện thoại di động Iphone 6s cho ông Trần Văn Q là đúng quy định pháp luật.

Đối với chiếc xe đạp hiệu Asama đang tạm giữ là tài sản của bị cáo đã dùng làm phương tiện phạm tội nên tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017);

1.1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn Thanh B phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

1.2. Xử phạt: Trần Văn Thanh B 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/3/2019.

2. Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

2.1. Buộc bị cáo Trần Văn Thanh B phải nộp lại số tiền 500.000đ (năm trăm ngàn đồng) do phạm tội mà có để tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước;

2.2. Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước chiếc xe đạp hiệu Asama.

(Theo lệnh nhập kho vật chứng số 27/19/LNK ngày 01/04/2019 của Công an Quận X, Thành phố H)

3. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo Trần Văn Thanh B phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ (hai trăm ngàn đồng).

Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được thực hiện quyền kháng cáo bản án. Trường hợp bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 64/2019/HS-ST

Số hiệu:64/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 9 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về