TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ Đ, TỈNH Q
BẢN ÁN 59/2023/HS-ST NGÀY 27/07/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 7 năm 2023, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã Đ, tỉnh Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 48/2023/TLST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2023/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:
Trần Công T; Sinh năm 1998 tại QN; Nơi cư trú: Thôn N 3, xã Đ, thị xã Đ, Q; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 10/12; Tiền án, tiền sự: Không; Con ông Trần Công T (chết) và bà Phạm Thị H; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai, chưa có vợ, con. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Ông Trịnh Ngọc V; Sinh năm 1992. Trú tại: Thôn ĐH, xã Đ, thị xã Đ, tỉnh Q.vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Đình K; Sinh năm 1988.
Trú tại: Khối QL, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Q (vắng mặt).
- Người làm chứng: Ông Trần Công S; Sinh năm 1993.
Trú tại: Thôn N 3, xã Đ, thị xã Đ, tỉnh Q.có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Vào khoảng 07 giờ 50 phút ngày 05/3/2023, Trần Công S chở Trần Công T đến tiệm phụ kiện điện thoại R - Đ 2 thuộc khối phố 2, phường Vĩnh Điện, thị xã Đ, tỉnh Q để mua loa và dây sạc điện thoại. Tại đây, anh Trịnh Ngọc V có đưa cho T một dây sạc điện thoại nhưng khi T cắm vào điện thoại của mình thì không sạc được nên anh V lấy một điện thoại di động hiệu Oppo Reno 5 màu xanh – hồng trong tủ điện thoại ra sạc thử rồi để trên tủ kính. Sau đó, anh V đi ra ngoài bán hàng cho khách. Lợi dụng sơ hở, Trần Công T đã trộm cắp chiếc điện thoại di động Oppo Reno 5 nói trên bỏ vào túi quần. Sau đó, T mượn chìa khóa xe của S mở cốp xe mô tô BKS: 92D1-X rồi bỏ điện thoại vừa trộm cắp được vào trong. T quay lại trong tiệm cùng S tính tiền rồi đi uống cà phê, sau đó về nhà. Khi anh S vào nhà thì T mở cốp xe lấy điện thoại trộm cắp được giấu trong phòng ngủ. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, Trần Công T đem điện thoại trên đến tiệm A Shop ở khối Q A, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Q do anh Trần Đình K làm chủ bán với giá 2.500.000 đồng. Đến ngày 11/3/2023, khi sự việc bị phát hiện T đã mang tiền đến chuộc lại điện thoại và giao nộp cho Cơ quan Công an.
Tại Kết luận định giá tài sản số 26/HĐ.ĐG ngày 06/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã Điện Bàn kết luận điện thoại di động hiệu Oppo Reno 5, màu xanh – hồng (phiên bản bạc đa sắc, không sim và thẻ nhớ) mua cũ vào tháng 01/2023, tại thời điểm tháng 4/2023 có giá trị là 3.000.000 đồng.
Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa Trần Công T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu, chứng cứ và các lời khai khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.
Tại bản cáo trạng số 50/CT-VKS ngày 30 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ, tỉnh Q truy tố bị cáo Trần Công T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Trần Công T với mức án từ 9 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
- Về vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Điện Bàn tạm giữ điện thoại di động hiệu Oppo Reno 5, màu xanh – hồng (phiên bản bạc đa sắc, không sim và thẻ nhớ) đã được trao trả cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Trịnh Ngọc V.
- Về dân sự: Anh Trịnh Ngọc V đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm. Anh V có đơn xin bãi nại và không yêu cầu xử lý trách nhiệm hình sự đối với Trần Công T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Điện Bàn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Điện Bàn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về sự vắng mặt của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng tại phiên tòa nhưng họ đã có lời khai tại cơ quan điều tra và có trong hồ sơ vụ án. Việc vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự tiếp tục tiến hành xét xử vụ án.
[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Vào khoảng 07 giờ 50 phút ngày 05/3/2023, tại tiệm điện thoại R - Đ 2 thuộc khối phố 2, phường V, thị xã Đ, tỉnh Q, Trần Công T đã có hành vi lén lút trộm cắp một điện thoại di động hiệu Oppo Reno 5 màu xanh – hồng của anh Trịnh Ngọc V có giá trị 3.000.000 đồng.
Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ, tỉnh Q và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Về tính chất, mức độ nghiêm T của hành vi phạm tội, xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Hành vi trộm cắp của bị cáo đã gây mất an ninh, trật tự tại địa phương, gây tâm lý bất an trong quần chúng nhân dân, xâm phạm quyền sỡ hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ.
Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình. Sau khi phạm tội bị cáo đã bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do mình gây ra, phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm T. Bị hại có đơn xin bãi nại và không yêu cầu xử lý trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Với những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã nêu trên, để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa, cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết cách ly bị cáo ra ngoài xã hội mà giao cho chính quyền địa phương nơi cư trú quản lý, giám sát, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.
Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo không có tài sản . Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo trộm cắp đã được thu hồi trao trả lại cho chủ sở hữu. Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì thêm nên HĐXX không xem xét.
[6] Về vật chứng vụ án: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Điện Bàn tạm giữ điện thoại di động hiệu Oppo Reno 5, màu xanh – hồng (phiên bản bạc đa sắc, không sim và thẻ nhớ) đã trao trả cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Trịnh Ngọc V nên HĐXX không xem xét.
[7] Những vấn đề liên quan đến vụ án: Đối với việc Trần Công T đem điện thoại Oppo Reno 5 màu hồng – xanh đã trộm cắp đến bán tại tiệm điện thoại di động do anh Trần Đình K làm chủ nhưng anh Kiên không biết nguồn gốc chiếc điện thoại này do trộm cắp mà có nên không xử lý đối với anh K là phù hợp.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HS-ST theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tuyên bố bị cáo Trần Công T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Trần Công T 09(chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm( 27/7/2023).
Giao bị cáo Trần Công T cho Ủy ban nhân dân xã Đ, thị xã Đ, tỉnh Q để giám sát, giáo dục trong suốt thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68 Luật Thi hành án Hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Về án phí:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 buộc bị cáo Trần Công T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 27/7/2023). Riêng bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết, tống đạt hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 59/2023/HS-ST
Số hiệu: | 59/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Điện Bàn - Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về