Bản án về tội trộm cắp tài sản số 53/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ LA GI, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 53/2022/HS-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã La Gi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 46/2022/TLST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2022/HSST-QĐ, ngày 17 tháng 6 năm 2022, đối với bị cáo:

Ngô Ngọc M (tên gọi khác: T G), sinh năm 1989, tại Bình Thuận. Nơi cư trú: Khu phố 3, phường B, thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận. Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 7/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên Chúa Giáo; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Ngô Văn Đ, sinh 1960; Bà Nguyễn Thị Kim G, sinh 1964 Vợ, con: không;

- Tiền án: Ngày 03/3/2020 bị Tòa án nhân dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chấp hành xong hình phạt vào ngày 25/12/2020.

- Tiền sự: Không.

- Về nhân thân: Ngày 04/07/2017 bị Tòa án nhân dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chấp hành xong hình phạt vào ngày 07/6/2018.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 21/5/2022, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thị xã La Gi (có mặt).

* Bị hại: Anh Trần Quốc T, sinh năm 1993. Nơi cư trú: Khu phố 2, P. T, thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngô Ngọc M là đối tượng nghiện ma túy, khoảng 11 giờ 30 phút ngày 09/12/2021, M điều khiển xe mô tô biển số 86B6-xxxxx (xe của anh Ngô Văn B – em ruột M) đi lòng vòng quanh địa bàn phường Tân An, thị xã La Gi, với mục đích thấy nhà ai sơ hở vào trộm cắp tài sản. Khi đi đến đoạn đường Ngô Quyền thuộc khu phố 2, phường Tân An, M thấy nhà anh Trần Quốc T mở cửa không có người trông coi, M dựng xe ngoài đường rồi đi bộ vào trong nhà, đi đến phòng ngủ phát hiện có chiếc ví da để trên chiếc tủ gỗ, M mở ví ra thấy có số tiền 570.000 đồng nên M lấy số tiền trên rồi đi ra xe chạy về nhà. Lúc sau anh T đi làm về thấy số tiền trong ví bị mất nên trình báo Công an Phường Tân An, qua xác M Công an triệu tập Ngô Ngọc M lên làm việc và M đã thừa nhận toàn bộ hành vi trộm cắp số tiền 570.000 đồng của anh T (gồm 01 tờ mệnh giá 500.000 đồng, 01 tờ mệnh giá 50.000 đồng và 01 tờ mệnh giá 20.000 đồng) và đã tiêu xài hết số tiền trên.

Về vật chứng vụ án: Gồm 01 tờ mệnh giá 500.000 đồng, 01 tờ mệnh giá 50.000 đồng và 01 tờ mệnh giá 20.000 đồng, bị cáo M đã tiêu xài hết không thu hồi được.

Về dân sự: Bị cáo Ngô Ngọc M giao nộp lại số tiền 570.000 đồng để hoàn trả lại cho bị hại Trần Quốc T, bị hại Tú không có yêu cầu gì thêm.

Sau khi phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân của bị cáo; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản cáo trạng số: 56/CT-VKS ngày 16/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi truy tố bị cáo Ngô Ngọc M, về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

*Tuyên bố: Bị cáo Ngô Ngọc M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

*Áp dụng: Điểm b khoản 1 Điều 173; Điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự.

*Xử phạt bị cáo Ngô Ngọc M từ: 12 – 18 tháng tù.

Về dân sự: Đã giải quyết xong.

Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Ngọc M thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ, bản Cáo Trạng của Viện kiểm sát; đồng ý với nội dung bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không có ý kiến tranh luận, đối đáp. Bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã La Gi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự có mặt của người tham gia tố tụng tại phiên tòa: Bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt. Ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo là đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử. Hội đồng xét xử xét thấy, việc vắng mặt của bị hại không gây trở ngại cho việc xét xử vì lời khai của họ đã khai đầy đủ thể hiện rõ trong hồ sơ vụ án, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét vụ án là phù hợp với quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về nội dung: Xét thấy, lời khai của bị cáo Ngô Ngọc M tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại; phù hợp với những tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án; do đó đủ cơ sở Hội đồng xét xử kết luận: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 09/12/2021, tại khu phố 2, phường Tân An, thị xã La Gi bị cáo Ngô Ngọc M đã lén lút vào nhà lấy trộm số tiền 570.000 đồng của bị hại Trần Quốc T để tiều xài cá nhân. Tuy số tiền bị cáo M trộm cắp dưới 2.000.000 đồng nhưng trước đó bị cáo M đã có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích nên hành vi lần này của bị cáo M đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Vì vậy Cáo Trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi truy tố đối với bị cáo Ngô Ngọc M về tội danh, điều luật áp dụng là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở trong quản lý tài sản của người khác để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý, nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự của địa phương.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Đối với tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo khai báo thành khẩn; đã khắc phục hậu quả cho bị hại. Do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về hình phạt: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, chỉ vì cần tiền tiêu xài cá nhân mà bị cáo bất chấp, xem thường pháp luật, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự an ninh tại địa phương, ngoài ra có nhân thân xấu. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, nhằm cải tạo, giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[7] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về dân sự: Đã giải quyết xong.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: - Điểm b khoản 1 Điều 173; Điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Ngô Ngọc M (T G) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Ngô Ngọc M 12 (mười hai) tháng tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 21/5/2022.

Về án phí: Bị cáo Ngô Ngọc M phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (30/6/2022). Riêng bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

85
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 53/2022/HS-ST

Số hiệu:53/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về