Bản án về tội trộm cắp tài sản số 49/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH LONG, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 49/2023/HS-ST NGÀY 23/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 23 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 26/2023/TLST- HS ngày 05 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 32/2023/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Lưu Minh K, sinh năm 1995 tại tỉnh Vĩnh Long (số định danh cá nhân: 0860950094xx) Nơi cư trú: số nhà C, đường N, Phường E, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Sơn V và bà Võ Thị L; bị cáo khai có vợ tên Nguyễn Thị Mỹ L1 và có 03 con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: bị Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 71/2014/HSST ngày 03/9/2014, chấp hành án xong ngày 05/12/2014; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 30/01/2023, có mặt tại phiên tòa

- Bị hại: Trung tâm Y tế thành phố V (có mặt) Địa chỉ trụ sở: số F, Khóm B, Phường I, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long. Địa chỉ cơ sở hai: số G, đường N, Phường E, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long. Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Văn N, chức vụ: Giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Đức T, nhân viên (theo văn bản ủy quyền ngày 16/5/2023)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Bà Huỳnh Thị L2, sinh năm 1970 (có mặt) Nơi cư trú: số nhà A, ấp H, xã T, huyện L, tỉnh Vĩnh Long Nơi tạm trú: số nhà F, đường P, Phường C, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 17/12/2022, bị cáo Lưu Minh K đi bộ từ nhà đến đường N với mục đích tìm tài sản sơ hở lấy trộm bán có tiền tiêu xài cá nhân. Khi đến Trung tâm Y tế thành phố V (cơ sở hai) tại địa chỉ: số G, đường N, Phường E, thành phố V thấy không có người trông coi nên bị cáo K trèo hàng rào vào bên trong, đi dọc theo hành lang bên hông ra phía sau, cửa không khóa nên bị cáo mở cửa vào hành lang phía trong thì nhìn thấy hai máy phun hóa chất, một máy nhãn hiệu KYOLI và một máy nhãn hiệu HUYNDAI. Bị cáo tháo cần phun thuốc, mang một máy trên vai, dùng tay cầm giữ máy còn lại mang ra cổng. Đến cổng, bị cáo để máy phun cầm trên tay lên kệ cao gần hàng rào rồi trèo lên hàng rào để ra ngoài. Khi ra được bên ngoài, bị cáo dùng tay cầm máy phun đang để trên kệ xuống và đi ra đường N hướng về mé sông đối diện với Trung tâm Y tế thành phố V cất giấu hai máy phun thuốc rồi về nhà.

Khoảng 03 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo đi bộ theo hướng bờ kè Phường E, qua cầu B đến khu vực Chợ P, thành phố V gọi một người chạy xe honda khách chở bị cáo đến nơi cất giấu hai máy phun thuốc. Bị cáo lấy hai máy phun thuốc rồi yêu cầu người điều khiển xe honda khách chở đến vựa thu mua phế liệu của bà Huỳnh Thị L2, địa chỉ: ấp H, xã T, huyện L, tỉnh Vĩnh Long bán hai máy phun hóa chất với giá 1.000.000 đồng/hai máy. Bị cáo tiêu xài cá nhân hết số tiền trên.

Khoảng 06 giờ 43 phút ngày 18/12/2022, ông Lê Đức T là nhân viên của Trung tâm Y tế thành phố V đến cơ quan làm việc thì phát hiện hai máy phun hóa chất bị trộm nên trình báo Công an P, thành phố V. Qua rà soát, Công an P, thành phố V mời Lưu Minh K làm việc thì K thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội trộm cắp tài sản như nêu trên. Qua làm việc, bà L2 giao nộp 02 máy phun hóa chất mua của bị cáo K cho Công an P, thành phố V quản lý.

Tại Kết luận định giá tài sản số 75/HĐĐGTSTTHS ngày 27/12/2022, Hội đồng định giá kết luận giá trị tài sản gồm: 01 máy phun hóa chất M DM-5501, hãng sản xuất KYOLI, năm đưa vào sử dụng: 2010, giá trị còn lại 10%, thành tiền:

470.000 đồng; 01 máy phun hóa chất Model HD26-3E, hiệu HYUNDAI, năm đưa vào sử dụng: 2020, giá trị còn lại 70%, thành tiền: 2.723.000 đồng; tổng giá trị tài sản: 3.193.000 đồng.

Kết quả điều tra, bị cáo K xác định bán 02 máy phun hóa chất cho bà Huỳnh Thị L2 không nói bà L2 biết đó là tài sản do bị cáo trộm cắp mà có. Bà L2 không biết sự việc bị cáo K trộm cắp 02 máy phun hóa chất của Trung tâm Y tế thành phố V nên hành vi của bà L2 chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” nên Cơ quan cảnh sát điều tra không tiến hành xử lý trách nhiệm hình sự đối với bà L2.

Đối với người chạy xe honda khách, bị cáo K khai không quen biết và đêm tối nên bị cáo không thấy rõ đặc điểm nhận dạng khuôn mặt, hình dáng cũng như biển số xe. Cơ quan cảnh sát điều tra chưa làm việc được với người chạy xe honda khách, tiếp tục xác minh, xử lý sau.

Trách nhiệm dân sự: Trung tâm Y tế thành phố V đã nhận đủ hai máy phun hóa chất, tình trạng vẫn còn nguyên vẹn, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Bà Huỳnh Thị L2 không yêu cầu bị cáo K trả lại bà L2 số tiền 1.000.000 đồng là tiền bà L2 dùng mua hai máy phun hóa chất.

Tại Cáo trạng số 31/CT-VKS-TPVL ngày 03/4/2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long đã truy tố bị cáo Lưu Minh K về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm: Bị cáo Lưu Minh K thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu và đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long tham gia xét xử đã trình bày luận tội:

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lưu Minh K phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với bị cáo Lưu Minh K. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Lưu Minh K từ 09 tháng - 01 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo K được tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Buộc bị cáo K nộp số tiền 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo K không có ý kiến tranh luận, đối đáp, lời nói sau cùng bị cáo K xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp quy định pháp luật.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Lưu Minh K đã khai hành vi phạm tội là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan cảnh sát điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan cảnh sát điều tra đã thu thập có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lưu Minh K phạm tội “Trộm cắp tài sảnquy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, tội phạm ít nghiêm trọng với lỗi cố ý trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của tổ chức là Trung tâm Y tế thành phố V, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an của địa phương. Cụ thể, vào khoảng 02 giờ 30 phút ngày 17/12/2022, bị cáo K đã lợi dụng đêm khuya, trèo rào vào bên trong trụ sở của Trung tâm Y tế thành phố V lấy trộm 01 máy phun hóa chất Model DM-5501, hãng sản xuất: KYOLI và 01 máy phun hóa chất M HD26-3E, hiệu HYUNDAI bán tài sản với tổng số tiền 1.000.000 đồng, tiêu xài cá nhân hết số tiền nêu trên. Hội đồng định giá tài sản đã kết luận tổng giá trị hai tài sản bị cáo K trộm cắp của Trung tâm Y tế thành phố V là 3.193.000 đồng. Như vậy, với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật, bị cáo cần phải bị xử lý với một hình phạt nghiêm tương ứng trong khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố.

[4] Tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trong suốt quá trình điều tra vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có nhân thân không tốt, bị Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 71/2014/HSST ngày 03/9/2014, đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/12/2014 và nộp xong án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự như đã nhận định, Hội đồng xét xử nhận thấy cần áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo được sự răn đe, giáo dục, giúp bị cáo cải tạo bản thân và cũng góp phần phòng ngừa chung cho xã hội. Bị cáo không nghề nghiệp, không tài sản nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Trách nhiệm dân sự: Trung tâm Y tế thành phố V đã nhận lại tài sản bị trộm cắp, không yêu cầu trách nhiệm dân sự đối với bị cáo K. Bà Huỳnh Thị L2 không yêu cầu bị cáo K trả lại bà L2 số tiền 1.000.000 đồng. Như vậy, trách nhiệm dân sự không tổ chức, cá nhân yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Xử lý vật chứng: Không có.

[6] Án phí: Buộc bị cáo Lưu Minh K nộp số tiền 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Xét ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long có căn cứ để chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, các điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án đối với bị cáo Lưu Minh K.

1. Tuyên bố bị cáo Lưu Minh K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lưu Minh K 04 (bốn) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo Lưu Minh K được tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

2. Về án phí: Buộc bị cáo Lưu Minh K nộp số tiền 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai có mặt bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

55
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 49/2023/HS-ST

Số hiệu:49/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về