Bản án về tội trộm cắp tài sản số 126/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 126/2023/HS-ST NGÀY 31/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh và Nhà tạm giữ Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai theo hình thức trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 128/2023/TLST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 968/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2023, đối với các bị cáo:

1. Trần M, sinh ngày 26 tháng 7 năm 1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; CMND số 0890980xxxxx; Hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã M, huyện C, tỉnh An Giang; Nơi cư trú: Số 4x đường H, thị trấn N, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn V, sinh năm 1970 và bà Trần Thị T, sinh năm 1971; Vợ, con: Tô Thị H, sinh năm 2001 và 01 con sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 27 tháng 4 năm 2023. (Có mặt tại điểm cầu thành phần)

2. Nguyễn T, sinh ngày 12 tháng 01 năm 2001 tại tỉnh Bình Thuận; Giới tính: Nam; CMND số 0602010xxxxx; Hộ khẩu thường trú: Tổ x, Thôn Y, xã G, huyện L, tỉnh Bình Thuận; Nơi cư trú: Số 5x đường 1x, phường D, thị xã A, tỉnh Bình Dương; Nghề nghiệp: Phụ xe; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đại D (đã chết) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1957; Vợ, con: Không có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 27 tháng 4 năm 2023. (Có mặt tại điểm cầu thành phần)

3. Bùi L, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1980 tại tỉnh Bến Tre; Giới tính: Nam; CMND số 3210xxxxx; Hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Bến Tre; Nơi cư trú: Số 3x đường N, phường D, thị xã A, tỉnh Bình Dương; Nghề nghiệp: Phụ xe; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn N, sinh năm 1953 và bà Đoàn Thị B (đã chết); Vợ: Nguyễn Thị G và 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 27 tháng 4 năm 2023. (Có mặt tại điểm cầu thành phần) Bị hại: Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng N; Địa chỉ trụ sở: N Tower, Số 6x đường P, Phường Q, quận W, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Công ty TNHH Thương mại Vận tải Tr; Địa chỉ trụ sở: Số 1x2 đường L, Tổ 8, Khu phố I, phường K, Quận J, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt)

- Công ty Cho thuê tài chính Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Quốc tế C; Địa chỉ trụ sở: Tầng x, Cao ốc S, Số 3x đường T, phường B, Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt)

- Công ty TNHH Tiếp vận M; Địa chỉ trụ sở: Nhà C, Khu R, Số 7x đường H, phường B, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ 25 phút ngày 26 tháng 4 năm 2023, Nguyễn T điều khiển xe ô tô đầu kéo biển số 50xx-16x.xx kéo theo sơ mi rơ moóc biển số 51x-24x.xx chở Bùi L giao khoảng 32 tấn thép đến công trình Tòa nhà Căn hộ - Văn phòng dịch vụ - Thương mại dịch vụ Khu phức hợp GB, Số 2x đường T, phường B, Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi thép trên xe đang được cẩu xuống công trình thì Trần M (là phụ cẩu của công trình) nảy sinh ý định chiếm đoạt số thép đã cắt sẵn của công trình nên đứng ngay cửa xe tài xế rủ Nguyễn T và Bùi L. Nguyễn T và Bùi L đồng ý nên xuống xe đi lấy 82 thanh thép bỏ vào trong thùng bên hông sơ mi rơ moóc rồi dùng tấm bạt che lại. Bùi L đưa Nguyễn T 210.000 đồng, Nguyễn T bỏ thêm 500.000 đồng để đưa Trần M 600.000 đồng nhưng Trần M xin thêm nên Nguyễn T đưa Trần M 710.000 đồng rồi Nguyễn T, Bùi L điều khiển xe đi về. Lúc này anh Bùi Hoàng T (là giám sát công trình) bắt giữ Trần M, Nguyễn T, Bùi L cùng vật chứng giao Công an.

Theo Kết luận định giá tài sản số 197/KL-HĐĐGTS ngày 15 tháng 7 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh kết luận 62 thanh thép phi D32 tổng cộng 635kg đã cắt khúc có độ dài khác nhau trị giá 4.763.000 đồng, 12 thanh thép phi D28 tổng cộng 84kg đã cắt khúc có độ dài khác nhau trị giá 630.000 đồng và 08 thanh thép phi D25 tổng cộng 48kg đã cắt khúc có độ dài khác nhau trị giá 360.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra, các bị cáo Trần M, Nguyễn T, Bùi L khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên, lời khai của các bị cáo Trần M, Nguyễn T, Bùi L phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng, hình ảnh camera tại hiện trường, biên bản ghi nhận sự việc, biên bản thực nghiệm điều tra, biên bản đối chất với bị hại và các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra thu thập.

Vật chứng vụ án:

- 01 (Một) xe đầu kéo hiệu Chenglong, biển số 50xx-16x.xx, số máy YC6MK37533MB3L2Fxxxxx, số khung LGGG4DY33FL2xxxxx, qua xác minh do Công ty Cho thuê tài chính Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Quốc tế C đứng tên chủ sở hữu. Công ty Cho thuê tài chính Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Quốc tế C khai cho Công ty TNHH Thương mại Vận tải Tr thuê lại, bảo quản và sử dụng, vẫn đang thực hiện đúng thỏa thuận giữa hai bên nên đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra trả lại xe cho Công ty TNHH Thương mại Vận tải Tr;

- 01 (Một) sơ mi rơ moóc hiệu Trung Quốc, biển số 51x-24x.xx, màu đỏ, số khung LJT92VGJ4100xxxxx, qua xác minh do Công ty TNHH Tiếp vận M đứng tên chủ sở hữu. Công ty TNHH Tiếp vận M khai đã bán cho anh Vũ T1 là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Thương mại Vận tải Tr từ lâu, không còn liên quan gì đến sơ mi rơ moóc này;

Anh Vũ T1 là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Thương mại Vận tải Tr khai đã giao xe đầu kéo biển số 50xx-16x.xx và sơ mi rơ moóc biển số 51x-24x.xx cho anh Nguyễn Minh H là nhân viên công ty, không biết việc anh Nguyễn Minh H giao xe đầu kéo và sơ mi rơ moóc này cho Nguyễn T. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại xe đầu kéo và sơ mi rơ moóc này cho anh Vũ T1.

- 62 thanh thép phi D32 tổng cộng 635kg, 12 thanh thép phi D28 tổng cộng 84kg và 08 thanh thép phi D25 tổng cộng 48kg đã cắt khúc có độ dài khác nhau, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng N;

- 710.000 (Bảy trăm mười nghìn) đồng, Trần M khai là tiền do Nguyễn T chia cho trong vụ trộm cắp tài sản;

- 01 (Một) đĩa DVD chứa hình ảnh camera ghi nhận vụ án, lưu kèm hồ sơ vụ án;

- Thu giữ của anh Trần T: 01 (Một) áo tay dài, màu cam, có chữ NewTecons, 01 (Một) quần jean dài màu xám, 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax 128 Gb, số imei 1: 3531676662xxxxx, số imei 2: 3531676665xxxxx, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho anh Trần T;

- Thu giữ của Trần M: 01 (Một) áo tay dài, màu cam, có chữ NewTecons, 01 (Một) quần chất liệu jean, ống dài, màu xám, 01 (Một) điện thoại di động hiệu Oppo Reno 5, số imei 1: 8655450566xxxxx, số imei 2: 8655450566xxxxx đã qua sử dụng;

- Thu giữ của Nguyễn T: 01 (Một) áo kiểu dáng sơ mi, tay dài, sọc ca rô màu nâu, trắng, 01 (Một) quần chất liệu jean, màu xám, 01 (Một) tấm bạt chất liệu nhựa, 01 (Một) điện thoại di động hiệu Redmi A1, số imei 1: 8697240618xxxxx, số imei 2:

8697240618xxxxx đã qua sử dụng;

- Thu giữ của Bùi L: 01 (Một) áo chất liệu thun, tay ngắn màu đen, 01 (Một) quần chất liệu jean, ống ngắn, màu xanh, 01 (Một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J4+, số imei 1: 3550211000xxxxx, số imei 2: 3550221000xxxxx đã qua sử dụng;

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng N đã nhận lại 62 thanh thép phi D32 tổng cộng 635kg, 12 thanh thép phi D28 tổng cộng 84kg và 08 thanh thép phi D25 tổng cộng 48kg, không có yêu cầu bồi thường về dân sự.

Cáo trạng số 135/CT-VKS-Q1 ngày 08 tháng 8 năm 2023 của Viện Kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo Trần M, Nguyễn T, Bùi L về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, các bị cáo Trần M, Nguyễn T, Bùi L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố.

Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận, giữ nguyên cáo trạng đã truy tố đối với các bị cáo Trần M, Nguyễn T, Bùi L về tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội gây thiệt hại không lớn, tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại; tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt các bị cáo Trần M, Nguyễn T, Bùi L từ 09 tháng đến 01 năm tù. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu giải quyết vấn đề dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) tấm bạt chất liệu nhựa, 01 (Một) áo tay dài, màu cam, có chữ NewTecons, 01 (Một) quần chất liệu jean, ống dài, màu xám của bị cáo Trần M, 01 (Một) áo kiểu dáng sơ mi, tay dài, sọc ca rô màu nâu, trắng, 01 (Một) quần chất liệu jean, màu xám, 01 (Một) tấm bạt chất liệu nhựa của bị cáo Nguyễn T và 01 (Một) áo chất liệu thun, tay ngắn màu đen, 01 (Một) quần chất liệu jean, ống ngắn, màu xanh của bị cáo Bùi L; Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 710.000 (Bảy trăm mười nghìn) đồng Trả lại cho bị cáo Trần M 01 (Một) điện thoại di động hiệu Oppo Reno 5, số imei 1: 8655450566xxxxx, số imei 2: 8655450566xxxxx đã qua sử dụng; Trả lại cho bị cáo Nguyễn T 01 (Một) điện thoại di động hiệu Redmi A1, số imei 1: 8697240618xxxxx, số imei 2: 8697240618xxxxx đã qua sử dụng; Trả lại cho bị cáo Bùi L 01 (Một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J4+, số imei 1:

3550211000xxxxx, số imei 2: 3550221000xxxxx đã qua sử dụng; Lưu giữ trong hồ sơ vụ án 01 (Một) đĩa DVD chứa hình ảnh camera ghi nhận vụ án.

Các bị cáo Trần M, Nguyễn T, Bùi L nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm hòa nhập cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với những lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại và người làm chứng, vật chứng thu được của vụ án, cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được. Các bị cáo khai nhận: Vào khoảng 22 giờ 25 phút ngày 26 tháng 4 năm 2023, Nguyễn T điều khiển xe đầu kéo biển số 50xx-16x.xx kéo theo sơ mi rơ moóc biển số 51x-24x.xx chở Bùi L giao khoảng 32 tấn thép đến công trình Tòa nhà Căn hộ - Văn phòng dịch vụ - Thương mại dịch vụ Khu phức hợp GB, Số 2x đường T, phường B, Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh vào vị trí giữa tòa tháp L2 và L3. Khi xe vào vị trí, Nguyễn T và Bùi L ngồi trên xe đợi, Trần M (phụ cẩu, dùng bộ đàm liên lạc) và Trần T (phụ cẩu, móc dây cáp máy cẩu, em ruột của Trần M) phối hợp với người lái cẩu thực hiện bốc thép xuống đất. Khi vừa bắt đầu bốc thép, Trần T đứng trên sơ mi rơ moóc thực hiện móc cáp, hạ thép xuống, Trần M nảy sinh ý định trộm cắp nhưng không có phương tiện nên đi đến ngay chỗ cửa xe tài xế nói với Nguyễn T và Bùi L “Xuống lụm mấy khúc mai ăn sáng uống cà phê chơi”. Nguyễn T và Bùi L hiểu là Trần M rủ trộm thép đã cắt sẵn, thép vụn của công trình nên đồng ý. Khoảng 00 giờ 45 phút ngày 27 tháng 4 năm 2023, khi Trần M và Trần T thực hiện gần xong việc bốc thép xuống đất (còn 01 bó thép trên xe) thì Nguyễn T và Bùi L xuống xe đi đến chỗ thép cắt sẵn, lấy trộm nhiều thanh thép bỏ vào trong thùng đồ nghề bên hông sơ mi rơ moóc rồi dùng tấm bạt đậy lại. Trần M cảnh giới. Nguyễn T, Bùi L trực tiếp dùng tay để trộm cắp tài sản. Bùi L đưa Nguyễn T 210.000 đồng, Nguyễn T bỏ thêm 500.000 đồng để đưa Trần M 600.000 đồng nhưng Trần M xin thêm nên Nguyễn T đưa Trần M 710.000 đồng rồi Nguyễn T, Bùi L điều khiển xe ra đến cổng công trình thì bị nhân viên giám sát công trình giữ lại, kiểm tra phát hiện quả tang việc trộm cắp thép của công trình, sau đó báo Công an đưa về trụ sở. Như vậy, các bị cáo là người đủ 18 tuổi có mục đích chiếm đoạt tài sản nên đã lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người quản lý tài sản, có hành vi lén lút chiếm đoạt số thép cắt sẵn của Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng N. Theo Kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh thì 62 thanh thép phi D32 tổng cộng 635kg đã cắt khúc có độ dài khác nhau trị giá 4.763.000 đồng, 12 thanh thép phi D28 tổng cộng 84kg đã cắt khúc có độ dài khác nhau trị giá 630.000 đồng và 08 thanh thép phi D25 tổng cộng 48kg đã cắt khúc có độ dài khác nhau trị giá 360.000 đồng, tổng cộng là 5.753.000 đồng. Do đó, các bị cáo Trần M, Nguyễn T, Bùi L đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Xét hành vi phạm tội của bị cáo có tính chất, mức độ ít nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quan hệ sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự, an toàn xã hội, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần phải áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội gây thiệt hại không lớn; nhân thân không có tiền án, tiền sự; Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Về vai trò của các bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án đồng phạm có người cảnh giới, có người trực tiếp lấy tài sản… Do đó, hành vi canh gác, cảnh giới là một phần của hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản, kết hợp với hành vi chiếm đoạt tài sản của các đồng phạm khác chính là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản. bị cáo Trần M là người xúi giục, thực hành tích cực; các bị cáo Nguyễn T, Bùi L là người thực hành nên cần áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo Trần M cao hơn mức hình phạt các bị cáo Nguyễn T, Bùi L, như vậy tương xứng với vai trò của từng bị cáo trong vụ án.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”, xét tính chất tội phạm, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền mỗi bị cáo 5.000.000 đồng.

[8] Về đánh giá vật chứng, xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2021:

[9] 01 (Một) xe đầu kéo hiệu Chenglong, biển số 50xx-16x.xx, số máy YC6MK37533MB3L2Fxxxxx, số khung LGGG4DY33FL2xxxxx và 01 (Một) sơ mi rơ moóc hiệu Trung Quốc, biển số 51x-24x.xx, màu đỏ, số khung LJT92VGJ4100xxxxx, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho anh Vũ T1 là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Thương mại Vận tải Tr là phù hợp và không xem xét thêm;

[10] 62 (Sáu mươi hai) thanh thép phi D32 tổng cộng 635kg, 12 (Mười hai) thanh thép phi D28 tổng cộng 84kg và 08 (Tám) thanh thép phi D25 tổng cộng 48kg đã cắt khúc có độ dài khác nhau, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng N là phù hợp và không xem xét thêm;

[11] 01 (Một) áo tay dài, màu cam, có chữ NewTecons, 01 (Một) quần jean dài màu xám, 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax 128 Gb, số imei 1:

3531676662xxxxx, số imei 2: 3531676665xxxxx, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho anh Trần T là phù hợp và không xem xét thêm;

[12] 710.000 (Bảy trăm mười nghìn) đồng, là tiền do phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước;

[13] 01 (Một) tấm bạt chất liệu nhựa là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy;

[14] 01 (Một) áo tay dài, màu cam, có chữ NewTecons, 01 (Một) quần chất liệu jean, ống dài, màu xám của bị cáo Trần M; 01 (Một) áo kiểu dáng sơ mi, tay dài, sọc ca rô màu nâu, trắng, 01 (Một) quần chất liệu jean, màu xám của bị cáo Nguyễn T và 01 (Một) áo chất liệu thun, tay ngắn màu đen, 01 (Một) quần chất liệu jean, ống ngắn, màu xanh của bị cáo Bùi L, không có giá trị, không sử dụng được, cần tịch thu và tiêu hủy;

[15] 01 (Một) điện thoại di động hiệu Oppo Reno 5, số imei 1: 8655450566xxxxx, số imei 2: 8655450566xxxxx đã qua sử dụng của bị cáo Trần M; 01 (Một) điện thoại di động hiệu Redmi A1, số imei 1: 8697240618xxxxx, số imei 2: 8697240618xxxxx đã qua sử dụng của bị cáo Nguyễn T và 01 (Một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J4+, số imei 1: 3550211000xxxxx, số imei 2: 3550221000xxxxx đã qua sử dụng của bị cáo Bùi L, là tài sản của các bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội, không phải là vật chứng nên trả lại cho các bị cáo;

[16] 01 (Một) đĩa DVD chứa hình ảnh camera ghi nhận vụ án, là tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc chứng minh tội phạm nên cần tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

[17] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu giải quyết vấn đề dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[18] Về các nội dung khác: Đối với hành vi của anh Trần T là em ruột của bị cáo Trần M, biết rõ tội phạm đang được thực hiện mà không tố giác không phải chịu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 19 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[19] Về án phí: Người bị kết án phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm quy định tại khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2021; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[20] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án quy định tại các điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2021.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố: Các bị cáo Trần M, Nguyễn T, Bùi L phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ vào khoản 1 và khoản 5 Điều 173; các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Trần M 01 (Một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 4 năm 2023.

Xử phạt bị cáo Nguyễn T 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 4 năm 2023.

Xử phạt bị cáo Bùi L 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 4 năm 2023.

Phạt mỗi bị cáo Trần M, Nguyễn T, Bùi L 5.000.000 (Năm triệu) đồng nộp ngân sách nhà nước.

- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2021:

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 710.000 (Bảy trăm mười nghìn) đồng (Phiếu nhập kho vật chứng số 184/2023/PNK-THAHS ngày 25 tháng 7 năm 2023 của Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh).

Tịch thu và tiêu hủy 01 (Một) áo tay dài, màu cam, có chữ NewTecons, 01 (Một) quần chất liệu jean, ống dài, màu xám của bị cáo Trần M; 01 (Một) áo kiểu dáng sơ mi, tay dài, sọc ca rô màu nâu, trắng, 01 (Một) quần chất liệu jean, màu xám, 01 (Một) tấm bạt chất liệu nhựa của bị cáo Nguyễn T và 01 (Một) áo chất liệu thun, tay ngắn màu đen, 01 (Một) quần chất liệu jean, ống ngắn, màu xanh của bị cáo Bùi L (Phiếu nhập kho vật chứng số 183/2023/PNK-THAHS ngày 25 tháng 7 năm 2023 của Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh).

Trả lại cho bị cáo Trần M 01 (Một) điện thoại di động hiệu Oppo Reno 5, số imei 1: 8655450566xxxxx, số imei 2: 8655450566xxxxx đã qua sử dụng (Phiếu nhập kho vật chứng số 183/2023/PNK-THAHS ngày 25 tháng 7 năm 2023 của Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh).

Trả lại cho bị cáo Nguyễn T 01 (Một) điện thoại di động hiệu Redmi A1, số imei 1: 869724061xxxxx, số imei 2: 8697240618xxxxx đã qua sử dụng (Phiếu nhập kho vật chứng số 183/2023/PNK-THAHS ngày 25 tháng 7 năm 2023 của Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh).

Trả lại cho bị cáo Bùi L 01 (Một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J4+, số imei 1: 3550211000xxxxx, số imei 2: 3550221000xxxxx đã qua sử dụng (Phiếu nhập kho vật chứng số 183/2023/PNK-THAHS ngày 25 tháng 7 năm 2023 của Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh).

Tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án 01 (Một) đĩa DVD chứa hình ảnh camera ghi nhận vụ án.

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2021; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Trần M, Nguyễn T, Bùi L, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Áp dụng các điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2021, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong thời hạn 15 ngày, kể ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 126/2023/HS-ST

Số hiệu:126/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về