Bản án về tội trộm cắp tài sản số 44/2023/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 44/2023/HS-PT NGÀY 04/04/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 22/2023/TLPT-HS ngày 14 tháng 02 năm 2023 đối với các bị cáo Huỳnh Tấn A do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 01/2023/HS-ST ngày 05 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Tiền Giang.

Bị cáo có kháng cáo:

Huỳnh Tấn A (Tên gọi khác: Đức), sinh ngày 04/02/1987; nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Ấp C, xã D, huyện K, Thành phố O;

- Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 02/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

- Con ông: Huỳnh Văn H, sinh năm 1964 và bà Trương Thị R, sinh năm 1966; Vợ: Trần Thị Thúy T, sinh năm 1989 và 01 con.

- Tiền án: 04 lần.

+ Ngày 01/03/2011, bị Tòa án nhân dân huyện K, Thành phố O tuyên phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 07/2011/HSST.

+ Ngày 22/11/2016, bị Tòa án nhân dân Thành phố O tuyên phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 683/2016/HSPT.

+ Ngày 15/10/2018, bị Tòa án nhân dân O tuyên phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 460/2018/HSPT.

+ Ngày 27/7/2018 bị Tòa án nhân dân huyện I, Thành phố O tuyên phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 91/2018/HSST.

- Tiền sự: Không.

- Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 20/8/2022 (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Ngoài ra, trong vụ án còn có 01 bị hại, 01 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, 03 người làm chứng không có kháng cáo, bản án không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 19/8/2022, anh Phạm Minh C điều khiển xe mô tô hai bánh biển số 63B7-643.96, loại HONDA FUTURE FI, màu xanh đen đến cơ sở làm bún của anh Nguyễn Quốc B tại ấp Bà Lãnh, xã Tân Đông, huyện N, tỉnh Tiền Giang để làm công, khi đến cơ sở của anh B, anh C dựng xe trước sân, chìa khóa còn cắm trên xe, sau đó đi vào làm và giao bún cho anh B. Đến khoảng 03 giờ ngày 20/8/2022 chị Trần Thị Kim L phát hiện bị cáo A vào lấy trộm xe của anh C, chị L truy hô và sử dụng xe đuổi theo, lúc này anh B và anh Nguyễn Văn Tường H nghe tiếng truy hô của chị L nên anh B dùng xe mô tô chở theo anh H cùng đuổi theo bị cáo A, chạy được một đoạn khoảng 700 mét thì bị cáo A rẽ vào hẻm gần đó, do hẻm cụt nên bị cáo A quay xe vừa trộm được chạy trở ra thì bị anh B, anh H chặn xe lại bắt giữ bị cáo A cùng với tang vật là xe mô tô hai bánh biển số 63B7-643.96, loại HONDA FUTURE FI, màu xanh đen của anh C.

Bản Kết luận định giá tài sản số 114/KL-HĐĐGTS ngày 04/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện N xác định: 01 xe mô tô hai bánh, biển số đăng ký: 63B7-643.96, nhãn hiệu: Honda, số loại: FUTURE FI; màu sơn: xanh đen; số máy JC90E0205612; số khung RLHJC7655MY106877, đăng ký lần đầu ngày 22/12/2021 nguyên giá 34.000.000 đồng, giá trị còn lại 90%, tương đương: 30.600.000 (Ba mươi triệu sáu trăm ngàn đồng).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2023/HS-ST ngày 05 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Tiền Giang đã quyết định:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Huỳnh Tấn A phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ tại điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Huỳnh Tấn A 03 (ba) năm tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày 20/8/2022.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và thông báo về quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

Ngày 12 tháng 01 năm 2023, bị cáo Huỳnh Tấn A có kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Huỳnh Tấn A khai khai nhận hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung bản án sơ thẩm đã xét xử, đồng thời có ý kiến giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Huỳnh Tấn A, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai nhận của bị cáo Huỳnh Tấn A tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nên có đủ căn cứ xác định: Khoảng 03 giờ ngày 20/8/2022, bị cáo Huỳnh Tấn A lén lút vào cơ sở làm bún của ánh Nguyễn Quốc B, tại ấp B.L, xã T.Đ, huyện N lấy chiếc xe mô tô loại Honda Puture FI, biển số 63B7-643.96 của anh Phạm Thanh C thì bị phát hiện truy đuổi bắt cùng tang vật.

Xét chiếc xe mô tô bị cáo chiếm đoạt trị giá 30.600.000 đồng và nhân thân có 04 tiền án, nên hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”. Vì thế, bản án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[2] Nhận thấy, về ý thức chủ quan các bị cáo nhận thức được rằng, tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của công dân luôn được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi trái pháp luật chiếm đoạt tài sản của người khác sẽ bị xử lý nghiêm khắc. Thế nhưng, bị cáo bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Xét hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến tài tài sản của bị hại, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, nên xử phạt bị cáo hình phạt nghiêm khắc là cần thiết, có như vậy mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và răn đe, phòng chống tội phạm chung cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đến tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện; đặc điểm nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo 03 năm tù là thỏa đáng. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không bổ sung được tình tiết giảm nhẹ nào mới để Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xem xét. Vì thế, xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo là không có cơ sở nên không chấp nhận.

Quan điểm của Viện kiểm sát đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[3] Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận, nên bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm.

[4] Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Huỳnh Tấn A; giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 01/2023/HS-ST ngày 05/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Tiền Giang.

2. Tuyên bố bị cáo Huỳnh Tấn A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Tấn A 03 (ba) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 20/8/2023.

3. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Huỳnh Tấn A phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

81
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 44/2023/HS-PT

Số hiệu:44/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về