Bản án về tội trộm cắp tài sản số 40/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

 BẢN ÁN 40/2023/HS-ST NGÀY 30/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 32/2023/TLST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Huỳnh Tấn H, sinh ngày 20/11/1991 tại tỉnh Phú Yên; cư trú tại: số M đường N, Phường K, thành phố T, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Tấn V (chết) và bà Võ Thị U, sinh năm 1966; tiền sự: không;

Tiền án: Ngày 19/5/2020 bị Toà án nhân dân thành phố Tuy Hoà xử phạt 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, chấp hành xong hình phạt tù ngày 19/5/2022.

Nhân thân:

- Ngày 21/01/2008 bị Toà án nhân dân thành phố Tuy Hoà xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”;

- Ngày 17/8/2012 bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Yên quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc thời hạn 24 tháng;

- Ngày 01/4/2016 bị Toà án nhân dân thành phố Tuy Hoà xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

- Ngày 13/4/2019 bị Công an Phường 2, thành phố Tuy Hoà xử phạt hành chính số tiền 2.000.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 12/11/2022; có mặt.

2. Bùi Minh T, sinh ngày 10/10/1986 tại tỉnh Phú Yên; cư trú tại: thôn N, xã B, thành phố T, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Quang T, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1966; vợ là Nguyễn Thị Ngọc T (đã ly hôn) và có 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2017; tiền sự: không;

Tiền án: Ngày 12/7/2005 bị Toà án nhân dân thành phố Tuy Hoà xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/11/2006 nhưng chưa thi hành phần án phí và bồi thường dân sự.

Bị cáo tại ngoại; có mặt.

Bị hại: Anh Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1984; cư trú tại: số B đường P, Phường N, thành phố T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Lê Văn L, sinh năm 1983; cư trú tại: số C đường L, Phường X, thành phố T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 11/11/2022, Huỳnh Tấn H nhờ Bùi Minh T chở đi công việc thì T đồng ý. T dùng xe mô tô chở H từ đường N đến đường H thuộc Phường K, thành phố T thì H bảo T dừng xe rồi rủ đi trộm tài sản thì T đồng ý. H đi bộ vào khu phòng trọ thuộc hẻm N đường H, còn T quay đầu xe ra đường để dễ tẩu thoát rồi đi bộ theo H. Khi H và T đi ngang qua phòng trọ của anh Nguyễn Ngọc H thì thấy H đang ngủ nhưng không đóng cửa phòng, đầu giường có chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J3 Pro màu vàng đang cắm sạc và một số tiền mặt. Lúc này, T quan sát xung quanh không thấy camera và thấy không có người nên nói cho H biết rồi T đi ra đầu dãy trọ cảnh giới. Huỳnh Tấn H lén lút đi vào phòng anh H lấy trộm chiếc điện thoại di động và số tiền 2.250.000 đồng rồi cùng T đi về nhà H. Sau đó, H đưa cho T bán chiếc điện thoại của anh H cho cửa hàng điện thoại di động Hoàng L do anh Lê Văn L làm chủ lấy số tiền 400.000 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 134/KL-HĐĐGTS ngày 21/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Tuy Hoà kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J3 Pro, màu vàng, đã qua sử dụng từ tháng 02/2021 có giá trị 950.000 đồng.

Về vật chứng: Đã trả lại cho chủ sở hữu số tiền 2.250.000 đồng; một số vật chứng khác đang tạm giữ.

Về dân sự: Anh Nguyễn Ngọc H được các bị cáo Huỳnh Tấn H và Bùi Minh T bồi thường giá trị chiếc điện thoại 950.000 đồng nên không có yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại bản Cáo trạng số 32/CT-VKSTH ngày 21/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuy Hòa đã truy tố các bị cáo Huỳnh Tấn H, Bùi Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, phạt bị cáo H từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù; bị cáo T từ 09 tháng đến 01 năm tù. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại số tiền bị mất và đã được bồi thường giá trị chiếc điện thoại, không có yêu cầu bồi thường thêm nên không xem xét. Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu huỷ 01 mũ lưỡi trai vải màu đen; 01 quần đùi vải sọc caro màu xanh, trắng; 01 áo vải thun cổ chui dài tay màu đen; 01 quần đùi vải sọc caro màu xanh, trắng, xám; 01 chai nhựa cao 21cm, có nắp màu đỏ, trên nắp có gắn 01 ống thuỷ tinh và 01 ống nhựa màu đen; 01 đôi dép xốp có 02 quai màu đen, có chữ Bitis; 01 quần short vải caro màu trắng đều là của bị cáo H; 01 mũ lưỡi trai vải Jean màu xanh, phía trước có chữ GUCCI; 01 áo thun vải ngắn tay, màu xám, phía trước có chữ KENZI PARIS; 01 quần short Jean màu xanh đã bạc đều là của bị cáo T. Lưu trữ 01 đĩa DVD vào hồ sơ vụ án.

Các bị cáo đều khai nhận hành vi phạm tội và xác nhận đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại.

Các bị cáo nói lời sau cùng:

Bị cáo H: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo T: Mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo vì bị cáo còn nuôi hai con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Tuy Hòa, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuy Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố. Lời khai của các bị cáo phù hợp với các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 13 giờ 47 phút ngày 11/11/2022, bị cáo Huỳnh Tấn H đã có hành vi lén lút vào phòng trọ của anh Nguyễn Ngọc H chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Sam sung J3 Pro trị giá 950.000 đồng và số tiền 2.250.000 đồng của anh H; bị cáo Bùi Minh T có hành vi giúp sức để bị cáo H thực hiện hành vi trộm cắp. Do đó, hành vi của các bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mang tính chất đồng phạm giản đơn, xâm phạm tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác đồng thời gây mất trật tự, an ninh tại địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.

Bị cáo H là người trực tiếp thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại. Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ sức khoẻ và năng lực để kiếm tiền bằng sức lao động chân chính nhưng bị cáo không thực hiện mà lại đi trộm cắp tài sản của người khác, mục đích để có tiền tiêu xài cá nhân. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị kết án, chưa được xoá án tích mà nay tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp tái phạm. Do đó, cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, có mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tiếp tục răn đe, giáo dục.

Bị cáo T là đồng phạm với bị cáo H với vai trò là người giúp sức. Bị cáo đã thực hiện việc cảnh giới để bị cáo H có điều kiện lấy tài sản. Bị cáo đã từng bị kết án, chưa được xoá án tích mà nay lại tiếp tục phạm tội nên cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, cũng cần có mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian. Tuy nhiên, bị cáo có vai trò thứ yếu nên cần xử với mức hình phạt thấp hơn bị cáo H.

[4] Xét các bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho bị hại; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, giảm cho các bị cáo một phần hình phạt để các bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo trở thành người có ích cho xã hội.

[5] Đối với anh Lê Văn L là chủ Cửa hàng điện thoại di động Hoàng L đã mua chiếc điện thoại do bị cáo T bán nhưng anh L không biết điện thoại này do trộm cắp mà có nên không xem xét trách nhiệm hình sự của anh L.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại số tiền 2.250.000 đồng và đã được các bị cáo bồi thường thiệt hại giá trị 01 điện thoại di động là 950.000 đồng, không có yêu cầu bồi thường thiệt hại thêm nên không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Vật chứng gồm 01 mũ lưỡi trai vải màu đen; 01 quần đùi vải sọc caro màu xanh, trắng; 01 áo vải thun cổ chui dài tay màu đen; 01 quần đùi vải sọc caro màu xanh, trắng, xám; 01 chai nhựa cao 21cm, có nắp màu đỏ, trên nắp có gắn 01 ống thuỷ tinh và 01 ống nhựa màu đen; 01 đôi dép xốp có 02 quai màu đen, có chữ Bitis; 01 quần short vải caro màu trắng (đều là của bị cáo H); 01 mũ lưỡi trai vải Jean màu xanh, phía trước có chữ GUCCI; 01 áo thun vải ngắn tay, màu xám, phía trước có chữ KENZI PARIS; 01 quần short Jean màu xanh đã bạc (đều là của bị cáo T) không có giá trị, các bị cáo không yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu tiêu huỷ.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; các điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Các bị cáo Huỳnh Tấn H và Bùi Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Phạt bị cáo Huỳnh Tấn H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 12/11/2022).

Phạt bị cáo Bùi Minh T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Tịch thu tiêu huỷ 01 mũ lưỡi trai vải màu đen; 01 quần đùi vải sọc caro màu xanh, trắng; 01 áo vải thun cổ chui dài tay màu đen; 01 quần đùi vải sọc caro màu xanh, trắng, xám; 01 chai nhựa cao 21cm, có nắp màu đỏ, trên nắp có gắn 01 ống thuỷ tinh và 01 ống nhựa màu đen; 01 đôi dép xốp có 02 quai màu đen, có chữ Bitis; 01 quần short vải caro màu trắng (đều là của bị cáo H); 01 mũ lưỡi trai vải Jean màu xanh, phía trước có chữ GUCCI; 01 áo thun vải ngắn tay, màu xám, phía trước có chữ KENZI PARIS; 01 quần short Jean màu xanh đã bạc (đều là của bị cáo T).

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày ngày 23/02/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuy Hoà và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuy Hoà).

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án; mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

68
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 40/2023/HS-ST

Số hiệu:40/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuy Hòa - Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về