Bản án về tội trộm cắp tài sản số 39/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHƯỚC, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 39/2022/HS-ST NGÀY 29/11/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 11 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 33/2022/TLST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2022 đối với:

* Bị cáo: Lê Văn N, sinh ngày 15 tháng 8 năm 1993, tại Bạc Liêu; Địa chỉ: ấp H, xã A, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu; nghề nghiệp: công nhân; trình độ văn hóa:

5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Tấn T1 (đã chết) và bà Phan Thị Đ1, sinh năm 1973; bị cáo có vợ là chị Thị D1, sinh năm 1990 đã ly hôn; bị cáo có 01 người con Lê Thị Mỹ D2, sinh năm 2014;

+ Tiền sự: Không.

+ Tiền án: 02.

Ngày 08/11/2016, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại bản án hình sự sơ thẩm số 134/2016/HSST. Ngày 04/8/2017 đã chấp hành xong bản án, chưa xóa án tích.

Ngày 12/3/2019, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại bản án hình sự sơ thẩm số 114/2019/HS-ST. Ngày 22/02/2021 đã chấp hành xong bản án, chưa xóa án tích.

Nhân thân của bị cáo:

Ngày 27/3/2015, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại bản án hình sự sơ thẩm số 46/2015/HSST. Ngày 25/6/2016 đã chấp hành xong bản án, đã xóa án tích.

Ngày 15/7/2009, bị cáo bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu ra quyết định số 1764/QĐ-UBND về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng với thời gian 24 tháng do có hành vi trộm cắp tài sản, xâm phạm đến sức khỏe, làm tổn hại danh dự, nhân phẩm của người khác. Ngày 15/02/2013 đã chấp hành xong quyết định, đã xóa án tích.

Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam ngày 28/6/2022 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

* Bị hại:

1. Lê Duy T2, sinh ngày 19/8/1996 (vắng mặt). Địa chỉ: ấp T, xã P, huyện M, tỉnh Bến Tre.

Chỗ ở hiện nay: ấp 4, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

2. Hà Minh T3, sinh ngày 16/8/1998 (vắng mặt). Trú tại: ấp Một, xã H, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

3. Nguyễn Hoàng N1, sinh ngày 30/01/1987 (vắng mặt). Trú tại: ấp 1, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Lê Huỳnh Đ2, sinh ngày 18/11/1999 (vắng mặt).

Địa chỉ: ấp L, phường T, thị xã C, tỉnh An Giang.

Chỗ ở hiện nay: ấp 5, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

2. Nguyễn An K, sinh ngày 16/9/1995 (vắng mặt). Trú tại: tổ 6, ấp T, xã Đ, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

3. Võ Quốc T4, sinh ngày 06/9/1994 (vắng mặt).

Trú tại: ấp T, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Văn N là đối tượng đang có tiền án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích. Trong khoảng thời gian từ ngày 19/6/2022 đến ngày 27/6/2022, N đã 03 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tân Phước và huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất:

Lúc 01 giờ ngày 19/6/2022, Lê Văn N một mình điều khiển xe mô tô 02 bánh biển số 94B1 – X từ nhà trọ “Thủy Tiên” thuộc ấp Q, xã Đ, huyện C, tỉnh Tiền Giang đến nhà trọ “Lan Anh” thuộc ấp 5, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang để tìm bạn tên Lê Huỳnh Đ2, sinh năm 1999, ĐKTT: ấp L, phường T, thị xã C, tỉnh An Giang đang thuê trọ tại đây chơi nhưng không gặp.

Trên đường chạy xe về ngang công trình đang thi công của công ty TNHH một thành viên Hồng Vận thuộc ấp 4, xã Tân Lập 1, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang thì N nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. N để xe trước cổng rồi leo rào vào trong khu nhà xưởng thì nhìn thấy anh Lê Duy T2, sinh năm 1996, ĐKTT: ấp T, xã P, huyện M, tỉnh Bến Tre đang nằm ngủ trên giường và để điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Ultra S20 kế bên để sạc pin, N lén lút đi đến lấy trộm điện thoại rồi ra xe chạy về nhà trọ “Thủy Tiên” ngủ.

Đến 08 giờ cùng ngày, N mở được mật khẩu điện thoại. Khoảng 13 giờ cùng ngày, N gọi điện thoại cho Đ2 sang phòng trọ của N chơi. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, N điều khiển xe 94B1 – X chở Đ2 đi đến cửa hàng điện thoại di động “Tài Ngọc” thuộc ấp Tân Phú, xã Tân Hương, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang do anh Nguyễn An K, sinh năm 1995, ĐKTT: ấp T, xã Đ, huyện C, tỉnh Tiền Giang làm chủ để bán với giá 4.000.000 đồng rồi tiêu xài cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 393/KL-HĐĐGTS ngày 04/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự huyện Tân Phước kết luận giá trị còn lại của điện thoại di động trên là 10.521.000 đồng (Mười triệu năm trăm hai mươi mốt nghìn đồng).

Vụ thứ hai:

Lúc 02 giờ ngày 27/6/2022, Lê Văn N một mình điều khiển xe mô tô biển số 94B1 – X đi ngang nhà anh Hà Minh T3, sinh năm 1998, ĐKTT: ấp Một, xã H, huyện T, tỉnh Tiền Giang. Quan sát thấy nhà anh T3 đã tắt đèn đi ngủ và nhà không có cửa rào nên N nảy sinh ý định vào trong trộm cắp tài sản. N để xe trước lộ và đi bộ vào trong sân thì nhìn thấy anh T3 đang nằm ngủ ở hành lang bên phải nhà (Theo hướng từ ngoài nhìn vào). N đi lại gần thì nhìn thấy anh T3 để điện thoại di động hiệu OPPO, màu đen trên đầu nằm nên N lén lút lấy trộm điện thoại rồi ra xe chạy đi về hướng xã Tam Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 397/KL-HĐĐGTS ngày 22/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự huyện Tân Phước kết luận giá trị còn lại của điện thoại di động hiệu OPPO trên là 3.245.000 đồng (Ba triệu hai trăm bốn mươi lăm nghìn đồng).

Vụ thứ ba:

Sau khi thực hiện xong vụ trộm thứ hai, khoảng 02 giờ 30 ngày 27/6/2022, Lê Văn N một mình tiếp tục điều khiển xe 94B1 – X đi ngang nhà anh Nguyễn Hoàng N1, sinh năm 1987, ĐKTT: ấp 1, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Quan sát thấy nhà anh N1 đã tắt đèn và nhà không có cửa rào nên N nảy sinh ý định vào trong trộm cắp tài sản. N để xe trước lộ và đi bộ vào trong sân thì nhìn thấy anh N1 đang nằm ngủ trên nền gạch ngay gần cửa chính, cửa không khóa. N đi lại gần thì nhìn thấy anh N1 để điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S20, màu xanh trên đầu nằm nên N lấy trộm điện thoại rồi ra xe chạy đi về nhà trọ.

Khoảng 14 giờ cùng ngày, N tiếp tục gọi điện cho Đ2 đến phòng trọ chơi. Đến 15 giờ cùng ngày, N điều khiển xe 94B1 – X chở Đ2 đi đến cửa hàng điện thoại di động “Thái Võ” tại ấp Tân Thạnh, xã Tân Hương, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang do Võ Quốc T4, sinh năm 1994 làm chủ định bán điện thoại di động trên thì bị công an bắt giữ N.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 152/KL-HĐĐG ngày 22/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang kết luận giá trị còn lại của điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S20 là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng). Như vậy, tổng giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt là 23.766.000 đồng (Hai mươi ba triệu bảy trăm sáu mươi sáu nghìn đồng) đem bán thu lợi bất chính 4.000.000 đồng.

Đối với vụ án trên, ngày 09/8/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang đã ban hành quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị cáo đối với Lê Văn N về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 BLHS. Đến ngày 17/8/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang đã ban hành ra Quyết định số 06/QĐ-VKSCT về việc chuyển hồ sơ vụ án hình sự nêu trên đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang để xử lý chung trong 01 vụ án.

Vật chứng, tài sản thu giữ và xử lý:

- 01 (một) xe mô tô 02 bánh biển số 94B1 – X, nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen. Số máy: E32VE551899, số khung: RLCUE3710NY315337, đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định xe mô tô này do Lê Văn N đứng tên sở hữu.

- 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Galaxy S20 Ultra 5G, màu đen, số Imie: 352649111283162, đã qua sử dụng. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả lại điện thoại có đặc điểm như đã nêu trên cho bị hại Lê Duy T2.

- 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Galaxy S20 FE, màu xanh, số Imie: 355728/26/105293/7, đã qua sử dụng. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả lại điện thoại có đặc điểm như đã nêu trên cho bị hại Nguyễn Hoàng N1.

- 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO A91, màu đen, đã qua sử dụng. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả lại điện thoại có đặc điểm như đã nêu trên cho bị hại Hà Minh T3.

- 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung, màu đỏ, số Imie: 359471/10/192021/3, màn hình bị vỡ, đã qua sử dụng. Qua điều tra xác định đây là tài sản cá nhân của Lê Văn N, không phải là phương tiện thực hiện hành vi phạm tội. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả lại điện thoại có đặc điểm như đã nêu trên cho bị cáo Lê Văn N.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo N thừa nhận toàn bộ hành vi của mình.

* Người bị hại:

1. Anh Lê Duy T2 vắng mặt có lời khai: Khoảng 23 giờ ngày 18/6/2022 anh đến công trình đang thi công của Công ty TNHH một thành viên Hồng Vận thuộc ấp 4, xã Tân Lập 1, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang để giữ công trình. Anh vào khu vực kho xưởng để nằm nghĩ và xem điện thoại.

Đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 19/6/2022, anh bắt đầu giăng mùng trên giường để ngủ và để điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Ultra S20 ở trên đầu bên trái để sạc pin. Đến sáng cùng ngày anh thức dậy thì phát hiện mất điện thoại di động nêu trên. Đến trưa thì anh đến Công an xã trình báo vụ viêc.

Nguồn gốc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Ultra S20 là do vợ của anh T2 là chị Trần Kim H mua ở trang Web mobileworld.com.vn với giá 11.690.000 đồng vào ngày 27/5/2022. Anh T2 xác định chị H mua điện thoại cho anh sài và anh toàn quyền quyết định đối với điện thoại trên.

Ngày 29/8/2022 anh T2 đã nhận lại được điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Ultra S20 nên anh không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì.

2. Anh Hà Minh T3 vắng mặt có lời khai: Khoảng 22 giờ ngày 26/6/2022 anh mang mùng chiếu ra hành lang bên trái của nhà tại ấp Một, xã Tân Hòa Thành, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang để ngủ. Anh nằm theo hướng đầu quay vào trong nhà, chân quay ra phía trước lộ, anh nằm trực tiếp dưới nền gạch, có giăng mùng.

Trước khi ngủ anh có để điện thoại nhãn hiệu OPPO A91, màu đen của anh ở ngay đầu nằm bên phải rồi đi ngủ. Đến khoảng 06 giờ ngày 27/6/2022 thì anh thức dậy phát hiện đã mất điện thoại nêu trên, sau đó gia đình anh có đến Công an xã để trình báo sự việc.

Ngày 30/8/2022 anh T3 đã nhận lại được điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A91, màu đen nên anh không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì.

3. Anh Nguyễn Hoàng N1 vắng mặt có lời khai: Khoảng 22 giờ ngày 26/6/2022 anh ra hành lang phía trước nhà tại ấp 1, xã Tam Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang cạnh phòng khách nhưng không có đóng cửa phòng khách để giăng mùng ngủ. Anh nằm theo hướng đầu quay vào trong nhà, chân quay ra phía trước lộ, anh nằm trực tiếp dưới nền gạch, có giăng mùng.

Trước khi ngủ anh có để điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy S20 của anh ở ngay đầu nằm bên trái rồi đi ngủ. Đến khoảng 04 giờ ngày 27/6/2022 thì anh thức dậy phát hiện đã mất điện thoại nêu trên, sau đó anh đến Công an xã để trình báo sự việc.

Ngày 26/8/2022 anh N1 đã nhận lại được điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S20 nên anh không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Lê Huỳnh Đ2 vắng mặt có lời khai: Khoảng 15 giờ ngày 19/6/2020 sau khi uống cà phê cùng với bị cáo N thì N rủ anh đi công chuyện anh hỏi đi công chuyện gì thì bị cáo N trả lời là đi bán điện thoại cá nhân của N thì anh đồng ý. Sau đó bị cáo N điều khiển xe mô tô 02 bánh nhãn hiệu Sirius chở anh đến của hàng điện thoại “Tài Ngọc” thuộc ấp Tân Phú, xã Tân Hương, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang để bán điện thoại. Khi đến cửa hàng điện thoại thì bị cáo N là người trực tiếp vào bên trong bán điện thoại còn anh đứng ở ngoài. Sau khi bán điện thoại xong thì N có nói với anh là bán được 4.000.000 đồng. Anh xác định anh không biết N bán điện thoại gì, không biết điện thoại mà N bán có nguồn gốc từ phạm tội mà có cũng như N không có chia tiền bán điện thoại cho anh.

Khoảng 14 giờ ngày 27/6/2020 sau khi uống cà phê cùng với bị cáo N thì bị cáo N rủ anh đi công chuyện thì anh đồng ý. Sau đó, anh điều khiển xe mô tô 02 bánh hiệu Sirius của bị cáo N chở bị cáo N. Lúc trên đường đi anh có hỏi bị cáo N đi đâu thì bị cáo N nói đi bán điện thoại của ông anh bán lại cho bị cáo N. Sau đó, anh và bị cáo N đến của hàng điện thoại di động “Thái Võ” tại ấp Tân Thạnh, xã Tân Hương, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang để bán điện thoại. Khi vào đến cửa hàng điện thoại thì bị cáo N là người trực tiếp tiến vào bên trong bán điện thoại. Sau khi chủ tiệm điện thoại xem xong thì nói đợi một lúc để bạn chủ tiệm đến xem máy. Sau đó, thì lực lượng Công an đến mời anh và bị cáo N về cơ quan làm việc. Anh xác định anh không biết N bán điện thoại gì, không biết điện thoại mà bị cáo N bán có nguồn gốc từ phạm tội mà có. Anh không yêu cầu bị cáo bồi thường gì.

2. Anh Nguyễn An K vắng mặt có lời khai: Anh là chủ tiệm điện thoại di động “Tài Ngọc” thuộc ấp Tân Phú, xã Tân Hương, huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang. Vào khoảng 15 giờ ngày 19/6/2022 thì có 02 nam thanh niên đi xe mô tô 02 bánh nhãn hiệu Sirius, màu đen đến của hàng anh bán điện thoại. Người thanh niên cao gầy (sau này anh mới biết là bị cáo N) có bán cho anh một điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S20 Ultra 5G, màu đen. Anh đồng ý mua với giá 4.000.000 đồng thì bị cáo N đồng ý bán. Anh đã đưa đủ số tiền 4.000.000 đồng cho bị cáo N và anh giữ điện thoại. Thời điểm anh mua điện thoại của bị cáo N thì anh không biết nguồn gốc điện thoại do trộm cắp mà có vì bị cáo N nói đây là điện thoại cá nhân của bị cáo N. Sau khi làm việc với cơ quan Công an anh đã giao điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S20 Ultra 5G, màu đen lại cho Công an giữ.

Nay anh yêu cầu bị cáo N bồi hoàn số tiền mà anh đã mua điện thoại cho bị cáo là 4.000.000 đồng. Ngoài ra, anh không yêu cầu gì thêm.

3. Anh Võ Quốc T4 vắng mặt có lời khai: Anh là chủ tiệm điện thoại di động “Thái Võ” thuộc ấp Tân Thạnh, xã Tân Hương, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Vào khoảng 15 giờ ngày 27/6/2022 thì có 02 nam thanh niên đi xe mô tô 02 bánh nhãn hiệu Sirius, màu đen đến của hàng anh bán điện thoại. Sau đó có đưa cho anh xem điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S20 FE, màu xanh, anh kiểm tra điện thoại được một lúc rồi kêu 02 nam thanh niên đợi một lúc để bạn anh lại xem điện thoại, rồi anh điện thoại báo Công an xã vì thấy 02 nam thanh niên trên khả nghi do trước đó anh có nghe thông tin trên địa bàn có 02 đối tượng hay trộm cắp tài sản rồi đến cửa hàng điện thoại bán. Anh xác định anh chưa giao dịch mua bán gì với 02 nam thanh niên trên. Anh không yêu cầu bị cáo bồi thường gì.

Tại Cáo trạng số 32/CT-VKS-TP ngày ngày 18 tháng 10 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước truy tố bị cáo Lê Văn N về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, - Viện kiểm sát huyện Tân Phước phát biểu:

Bị cáo đã thừa nhận hành vi pham tội như Cáo trạng đã nêu và phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo và khẳng định việc truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng số 32/CT-VKS-TP ngày 18 tháng 10 năm 2022 là đúng người, đúng tội không có gì thay đổi. Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Bộ luật Hình sự 2015. Tuyên bố bị cáo Lê Văn N phạm tội Trộm cắp tài sản và xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 03 năm tù, thời gian chấp hành tính từ ngày 28/6/2022.

+ Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn An K yêu cầu bồi hoàn số tiền mà anh đã mua điện thoại do bị cáo trộm cắp mà có là 4.000.000 đồng. Bị cáo tự nguyện bồi thường theo yêu cầu của anh K. Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.

+ Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu sung quỹ 01 (một) xe mô tô 02 bánh biển số 94B1 – X, nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen. Số máy: E32VE551899, số khung: RLCUE3710NY315337, đã qua sử dụng. Đây là phương tiện bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội.

- Bị cáo thống nhất với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận gì.

- Người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, nên không có ý kiến tranh luận gì.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thấy mình sai, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa, bị hại anh Lê Duy T2, anh Hà Minh T3, anh Nguyễn Hoàng N1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Võ Quốc T4, anh Lê Huỳnh Đ2 và anh Nguyễn An K vắng mặt. Xét việc anh T2, anh T3, anh N1, anh T4, anh Đ2 và anh K đã có lời khai tại hồ sơ và đã được Tòa án tống đạt hợp lệ. Xét việc anh T2, anh T3, anh N1, anh T4, anh Đ2 không yêu cầu về trách nhiệm dân sự, riêng anh K yêu cầu bồi hoàn số tiền mà anh đã mua điện thoại do bị cáo trộm cắp mà có là 4.000.000 đồng tại phiên tòa bị cáo cũng đồng ý tự nguyện bồi thường theo yêu cầu của anh K. Việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt các đương sự trên.

Xét nguồn gốc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Ultra S20 là do vợ của anh T2 là chị Trần Kim H mua ở trang Web mobileworld.com.vn với giá 11.690.000 đồng vào ngày 27/5/2022. Tại các biên bản ghi lời khai trong hồ sơ vụ án thì anh T2 và chị H xác định chị H mua điện thoại cho anh T2 sài và anh T2 toàn quyền quyết định đối với điện thoại trên, nên Hội đồng xét xử xét không cần thiết phải đưa chị H vào tham gia tố tụng.

[2]. Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phước, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[3]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

[3.1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lê Văn N đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình là trong khoảng thời gian từ ngày 19/6/2022 đến ngày 27/6/2022, trên địa bàn các xã Tân Lập 1, Tân Hòa Thành thuộc huyện Tân Phước và xã Tam Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Bị cáo Lê Văn N đã 03 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là điện thoại di động của các bị hại Lê Duy T2, Hà Minh T3 và Nguyễn Hoàng N1. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt có giá trị thành tiền là 23.766.000 đồng (Hai mươi ba triệu bảy trăm sáu mươi sáu nghìn đồng) nên phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình gây ra.

[3.2] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, lời khai của người bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với kết quả xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa hôm nay. Xét thấy, bản án hình sự sơ thẩm số 114/2019/HS-ST ngày 12/3/2019 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết tái phạm. Ngày 22/02/2021 đã chấp hành xong bản án, chưa xóa án tích thì ngày 19/6/2022 bị cáo tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý, nên trường hợp của bị cáo là tái phạm nguy hiểm. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Văn N phạm tội trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015: “2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: ..g) Tái phạm nguy hiểm;..”.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước truy tố đối với bị cáo là có cơ sở và đúng pháp luật.

[4]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của các bị hại Lê Duy T2, Hà Minh T3 và Nguyễn Hoàng N1. Nhằm mục đích muốn có tiền tiêu xài, phục vụ cho lợi ích cá nhân, ý thức lười lao động nhưng lại thích hưởng thụ bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Cụ thể trong vụ án này, bị cáo đã trộm điện thoại của anh T2, anh T3 và anh N1. Tổng giá trị tài sản là 23.766.000 đồng. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác và trật tự công cộng được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, bị cáo N phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình gây ra.

[5]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo:

- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo N có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra xét thấy, bị cáo N thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Tại phiên tòa, bị cáo tự nguyện bồi thường cho anh anh Nguyễn An K số tiền 4.000.000 đồng. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

+ Tiền án: Bị cáo có 02 tiền án như sau:

+ Ngày 08/11/2016, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, theo bản án hình sự sơ thẩm số 134/2016/HSST. Ngày 04/8/2017 bị cáo đã chấp hành xong bản án, chưa xóa án tích.

+ Ngày 12/3/2019, bị cáo lại bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại bản án hình sự sơ thẩm số 114/2019/HS-ST. Ngày 22/02/2021 bị cáo đã chấp hành xong bản án, chưa xóa án tích.

- Nhân thân của bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu cụ thể như sau:

+ Ngày 15/7/2009, bị cáo bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu ra quyết định số 1764/QĐ-UBND về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng với thời gian 24 tháng do có hành vi trộm cắp tài sản, xâm phạm đến sức khỏe, làm tổn hại danh dự, nhân phẩm của người khác. Ngày 15/02/2013 đã chấp hành xong quyết định, đã xóa án tích.

+ Ngày 27/3/2015, bị cáo còn bị Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, theo bản án hình sự sơ thẩm số 46/2015/HSST. Ngày 25/6/2016 bị cáo đã chấp hành xong bản án, đã xóa án tích.

Với tình tiết nêu trên, Hội đồng xét xử cân nhắc khi lượng hình để tuyên xử mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo. Xét cần thiết phải cách ly bị cáo Nhí khỏi đời sống chung với xã hội một thời gian, nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình, xã hội và nhằm răn đe, phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thống nhất không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7]. Về vật chứng của vụ án:

+ Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ: 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Galaxy S20 Ultra 5G, màu đen, số Imie: 352649111283162, đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Galaxy S20 FE, màu xanh, số Imie: 355728/26/105293/7, đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO A91, màu đen, đã qua sử dụng. Cơ quan điều tra đã trả lại các điện thoại có đặc điểm như đã nêu trên cho các bị hại xong, đúng quy định pháp luật.

+ 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung, màu đỏ, số Imie: 359471/10/192021/3, màn hình bị vỡ, đã qua sử dụng. Qua điều tra xác định đây là tài sản cá nhân của Lê Văn N, không phải là phương tiện thực hiện hành vi phạm tội. Cơ quan điều tra đã trả lại điện thoại có đặc điểm như đã nêu trên cho các bị cáo Lê Văn N xong, đúng quy định pháp luật.

+ 01 (một) xe mô tô 02 bánh biển số 94B1 – X, nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen. Số máy: E32VE551899, số khung: RLCUE3710NY315337, đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định xe mô tô này do Lê Văn N đứng tên sở hữu. Đây là phương tiện gây án nên tịch thu sung công quỹ nhà nước.

[8]. Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại là anh Lê Duy T2, anh Hà Minh T3 và anh Nguyễn Hoàng N1 đã nhận lại các tài sản bị mất và không có yêu cầu bị cáo bồi thường và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Huỳnh Đ2 và anh Võ Quốc T4 không có yêu cầu bị cáo bồi thường.

Riêng anh Nguyễn An K yêu cầu bị cáo bồi hoàn lại số tiền 4.000.000 đồng đã mua điện thoại. Tại phiên tòa, bị cáo tự nguyện bồi thường theo yêu cầu của anh K, nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[9] Đối với hành vi của anh Lê Huỳnh Đ2 là người cùng bị cáo đi bán các điện thoại do bị cáo trộm cắp mà có; Anh Nguyễn An K mua điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Galaxy S20 Ultra 5G, màu đen, số Imie: 352649111283162, đã qua sử dụng do bị cáo trộm cắp mà có. Qua điều tra, anh Đ2 và anh K không biết đây là tài sản do trộm cắp mà có, cũng không có hứa hẹn trước với bị cáo N nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Phước không truy cứu trách nhiệm hình sự là có căn cứ. Đối với anh Võ Quốc T4 thì anh T4 không có giao dịch mua bán gì với bị cáo cũng như anh T4 là người báo Công an xã để làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo N nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Phước không truy cứu trách nhiệm hình sự là có căn cứ.

[10]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

[11]. Xét phân tích và đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp với nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 53 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn N 03 (ba) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 28/6/2022.

2. Về trách nhiệm hình sự.

- Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự và điều 584, 585, 586, 588, 590, của Bộ luật Dân sự.

Buộc bị cáo Lê Văn N có nghĩa vụ trả cho anh Nguyễn An K số tiền 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng). Thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thực hiện thì hàng tháng còn phải chịu thêm tiền lãi chậm trả theo khoản 2 Điều 357, 468 Bộ luật Dân sự.

3. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật Hình sự.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 (một) xe mô tô 02 bánh biển số 94B1 – X, nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen. Số máy: E32VE551899, số khung:

RLCUE3710NY315337.

Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang đang tạm giữ. Thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Văn N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo Lê Văn N được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại anh Lê Duy T2, anh Hà Minh T3, anh Nguyễn Hoàng N1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Võ Quốc T4, anh Lê Huỳnh Đ2 anh Nguyễn An K được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 39/2022/HS-ST

Số hiệu:39/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phước - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về